Gần như vô thức, ý nghĩ về trường hợp kỳ lạ này cứ quay đi quay lại như cái cối xay trong đầu gã luật sư. Trong buổi ăn trưa, gã hầu như không nuốt nổi. Sau đó khi nằm xuống để làm một giấc ngắn như gã thường quen làm trong những ngày tháng hè, nhưng gã không ngủ được.
“Ma,” gã tự nhủ với sự dè bỉu, trong khi hình ảnh ba nhân vật hài hước lập đi lập lại lời thề chính mắt họ thấy ma tái lóe hiện trong trí gã.
Hồi bé gã từng nghe kể nhiều chuyện ma khiến gã hãi sợ và mất ngủ suốt nhiều đêm.
“Linh hồn,” gã thở dài, duỗi hai tay lên cao dưới mái mùng rồi thả cho chúng buông bịch trở lại xuống giường. “Linh hồn … linh hồn bất tử …” Dĩ nhiên, gã thừa nhận, để tin có ma hay không phải tin vào sự bất tử của linh hồn trước đã, chuyện đương nhiên, nhưng gã có tin điều đó hay không? Gã luôn nói rằng gã không tin và bây giờ làm thế nào gã có thể thừa nhận nó dù rằng với sự hoài nghi? Liệu gã trở lại với niềm tin của mình được không? Gã biết rằng người ta thường hay dối mình, rằng người ta thường sợ khám phá cái tôi của mình bởi e phác giác ra rằng mình quá khác so với cái tôi mà mình tin tưởng nó là như vậy, hoặc khác với cái tôi mà mình muốn được thiên hạ biết đến. Nhưng bao nhiêu người đã từng nghiêm túc suy nghĩ về vấn đề linh hồn? Cuộc sống cuốn hút quá khiến người ta khó lòng có thì giờ để nghĩ đến những vấn đề như vậy; tuy nhiên chúng nên được xem là quan trọng hơn tất cả những vấn đề khác. Một người bạn chết, và như những con thú bất kham, chúng ta không ai chịu nghĩ về người bạn xa hơn sau cái chết, mà hoàn toàn hài lòng với ký ức về quá khứ với người ấy, rồi chỉ việc đốt lên một điếu xì gà để xua đi nỗi buồn phiền là xong. Ngay cả khoa học, như ta thấy, không tìm tòi xa hơn sự hiện hữu của loài người, không quan tâm và từ chối xem xét đến sự chết. “Đừng có bận tâm về sự chết,” khoa học nói, “hãy cứ tiếp tục bổn phận hằng ngày, nghĩ về đời sống hiện tại, đến công việc, đến nghề nghiệp của mình.”
Hoàn toàn đúng.
Gã luật sư mãi đến giờ cũng thế, vẫn không hề bận tâm về cái chết, nhưng đây kìa: ma hay linh hồn bất tử, như xảy ra, đang gõ cửa nhà gã, buộc gã phải quan tâm về chúng.
“Ông muốn lờ chúng tôi à,” nghe như chúng muốn nhắn nhủ với gã. “Ông muốn ngoảnh mặt ngó lơ với sự chết nhưng chúng tôi đây nè, từ vương quốc của cõi chết đang gõ lên những cánh cửa của những kẻ còn sống, chọc ghẹo các người chơi, làm cho bàn ghế khiêu vũ khắp phòng, làm cho thân chủ ông sợ chết khiếp, và cất tiếng cười họ từ trong kẹt sâu của cái tủ áo cũ, làm cho ông hôm nay phải bối rối, nhà luật sư thông thái của tôi, rồi ngày mai sẽ gây bối rối thêm cho những ông tòa cũng thông thái không kém, họ phải thử một hành động mới lạ nhất từng được xét xử tại bất kỳ tòa án nào, một hành động đòi bồi thường thiệt hại đối với ma.”
Liệu gã vẫn không chịu quan tâm đến lũ ma?
Nhảy khỏi giường, đầy hào hứng, Zummo đi trở lại thư phòng và tìm đến với những sách tham khảo.
Các điều khoản 1575 và 1577 của Bộ luật Dân sự dường như cung cấp nền tảng cho vụ tranh tụng này của gã.
Chúng kê ra, trong số những điều, rằng bên thuê ngôi nhà được hưởng quyền “thụ hưởng một cách yên bình” căn bất động sản trong thời kỳ thuê mướn, và rằng “bên cho thuê phải chịu trách nhiệm với bên thuê về mọi phiền hà không được tiết lộ cho bên thuê biết trước, khiến có thể làm giảm hoặc cản trở việc tận hưởng trọn vẹn suốt thời gian thuê nhà.
Luật rất rõ ràng, nhưng – mấu chốt của vụ cãi – đó là cần phải chứng minh sự hiện hữu của ma và sự hiện diện của chúng trong căn nhà ấy.
Gã có cả đống lời khai và nhiều nhân chứng chịu đứng ra chứng thực câu chuyện của thân chủ gã, nhưng chứng cớ phải ở mức độ nào để có thể xem là đáng tin cậy? Làm thế nào gã dẫn chứng lời các khoa học gia để minh chứng cho các lời khai?
Nhận được lời yêu cầu giúp đỡ lập lại của gia đình Piccirilli, người luật sư hứa nhận cãi vụ này và sẽ làm hết khả năng có thể.
Trước tiên gã đọc lịch sử khái quát về tâm linh học, từ thời khởi thủy thần thoại đến ngày nay; sau đó gã tham khảo sách của Jacolliot nói về những sự huyền bí của phái khất sĩ fakir; rồi gã đọc mọi thứ viết về cùng vấn đề bởi những chuyên gia tiếng tăm và khả tín nhất, từ Crookes đến Wagner, từ Aksafof đến Gibier và Zoellner, từ Janet đến de Rochas, từ Richet đến Morselli. Từ đó gã học hỏi được nhiều đến nổi gã phải kinh ngạc chính mình, rằng ngay cả những người hoài nghi nhất trong khoa học đã từng tuyên bố rằng chớ nên nghi ngờ cái gọi là “hiện tượng tâm linh.”
Gã thấy hưng phấn. “Bây giờ,” gã tự nhủ, “sự việc bắt đầu trông sáng sủa hơn nhiều rồi.”
Ngày nào những hiện tượng được báo cáo bởi những người tầm thường như nhà Piccirilli, thì ngày ấy gã, một người có học thức và có nền tảng khoa học, có quyền cười vào mặt họ. Cho dù chính gã có tận mắt thấy ma gã vẫn có thể tin rằng đó là do ảo giác. Nhưng khi những người của khoa học như Lombroso hay Richet thừa nhận sự hiện hữu của chúng thì vấn đề trở nên hoàn toàn khác.
Quên tất cả thân chủ và vụ tranh tụng, luật sư Zummo quên cả chính mình, với niềm tin ngày càng tăng, để nghiên cứu về thuyết tâm linh. Trong một thời gian dài, công việc vừa qua của gã tuy rất hưng thịnh và nhận được thù lao cao nhưng chúng không mang lại sự hài lòng về trí tuệ mà gã hằng khao khát. Lạc lõng trong một thành phố nhỏ nơi rất ít có thể được tìm thấy để thỏa mãn cơn đói các lối thoát cao hơn của bộ não, gã bây giờ khám phá ra rằng một lối thoát mới vừa hé lộ cho gã qua những cuốn sách về vấn đề to lớn của sự kiện sau khi chết. Có thể nào vấn đề to lớn của sự chết đã được giải quyết? Linh hồn người chết có thể nào trở lại và “hiện ra” trong chốc lát không? Hồn ma có thể nào trở lại với gã, kẻ quá mù mờ, bắt tay gã và nói: “Zummo, chớ có lo. Đừng bận tâm về sự tồn tại nhỏ nhặt của ông trên thế gian. Có thứ khác, một đời sống tốt đẹp hơn chờ đón ông một ngày nào đó !! Tiến tới đằng trước đi ! Chớ có sợ gì cả !”
Hầu như mỗi ngày, lão Piccirilli, hoặc với vợ hoặc với đứa con gái, đến gặp gã và thảo luận về vụ tranh tụng.
“Tôi vẫn đang làm việc cho vụ này: chớ có lo: tôi không quên quí vị đâu,” người luật sư nói. Nhưng, thật sự mà nói, gã đã hoàn toàn quên mọi người, trì hoãn càng nhiều vụ càng tốt và ngay cả không nhận thêm thân chủ mới. Tuy nhiên cuối cùng, vì đội ơn gia đình Piccirillis đáng thương, những kẻ đã vô tình chỉ lối cho gã đi về chỗ sáng, nên gã quyết định lo chu đáo cho vụ tranh tụng của họ.
Thảo luận
Không có bình luận