CHƯƠNG BA MƯƠI BẢY
Gã nhân viên an ninh trẻ rên rỉ đau đớn nhưng theo như Tina thấy, vết thương của gã không đến nổi nguy đến tính mạng.
“Mầy không chết đâu,” Elliot nói.
“Chúa ơi, tôi chết mất !”
“Không, vết thương của mầy chỉ gây đau đớn, nhưng không quá nặng. Viên đạn không làm vỡ động mạch nào cả.”
“Làm sao ông biết ?” Kẻ bị thương nghiến răng hỏi lại.
“Nếu mầy chịu khó nằm yên, mầy sẽ ổn thôi. Nhưng nếu động đến vết thương, mầy sẽ làm rách một động mạch đã bị trầy xướt, và lúc đó thì mầy sẽ chết vì mất máu.”
“Cứt thật,” gã nhân viên run rẩy nói.
“Nghe rõ chứ ?” Elliot hỏi.
Gã gật đầu, mặt tái xanh và mồ hôi ra đầm đìa. Trong khi đó Elliot trói hai tay gã an ninh lớn tuổi hơn vào một chiếc ghế, rồi họ cẩn thận dẫn gã vào trong tủ đựng đồ và giam gã trong đó.
“Đầu anh thế nào ?” Tina hỏi Elliot, đưa tay sờ nhẹ lên chỗ sưng bên thái dương chàng.
“Đau nhói nhưng anh sẽ ổn thôi,” chàng đáp.
“Chóng mặt không ?”
“Không.”
“Anh có thấy hình ảnh bị nhòa một hóa hai không ?”
“Không, anh không sao. Chỉ hơi nhức đầu. Nào, đi tìm Danny và đưa nó ra khỏi đây.”
Họ đi ngang qua chỗ gã an ninh đang bị trói vào ghế. Tina cầm theo đoạn dây còn lại và Elliot thì không quên mang theo khẩu súng.
Đối diện với cánh cửa mà trước đây Tina và Elliot bước vào là một cánh cửa khác. Cánh cửa nầy mở ra một chỗ nối liền với hai hành lang mà Tina khám phá cách đây vài phút sau khi Elliot vừa bắn gã an ninh, nàng nhìn vào đó để kiểm soát xem có tăng viện nào kéo đến không. Lúc ấy nàng không thấy ai mà bây giờ cũng hoàn toàn vắng vẻ. Yên lặng. Nền gạch hoa trắng. Tường trắng. Ánh đèn nê-ông sáng chói lòa. Một lối đi chạy dài gần hai mươi thước về bên trái cánh cửa và một lối đi khác cùng chiều dài chạy về bên phải; cả hai lối đi có thêm nhiều cửa, tất cả đều đóng, cộng thêm một dãy gồm bốn lối vào thang máy nằm bên phải. Căn phòng lớn nơi giao thoa giữa hai lối đi nằm ngay trước mặt họ, ngó qua phòng an ninh, được khoét sâu vào núi ít nhất một trăm mét; một dãy cửa lớn nằm mỗi bên, dẫn vào những hành lang khác.
Họ thì thầm với nhau :
“Biết Danny có ở trên tầng nầy không ?”
“Không biết được.”
“Nên bắt đầu ở đâu đây ?”
“Chúng ta không thể đi mở thử từng cánh cửa.”
“Đằng sau một vài cánh cửa đó sẽ có người.”
“Càng ít chạm trán … “
“… càng có cơ may thoát ra mà vẫn toàn mạng.”
Họ đứng đó, chần chừ, hết nhìn trái rồi lại nhìn phải rồi lại nhìn đằng trước. Cách chỗ họ chừng ba mét, một loạt mấy cánh cửa thang máy mở ra. Tina vội nép sát vào tường trong khi Elliot hướng súng về phía ấy. Không thấy ai từ đó bước ra. Vì họ đứng xéo góc với mấy cánh cửa nên không thể thấy có ai ở bên trong thang máy hay không. Tất cả cánh cửa khép lại. Tina có cảm giác như có người sắp bước ra nhưng rồi vì cảm thấy có sự hiện diện của họ nên vội đi báo động.
Trước khi Elliot hạ thấp súng xuống, mấy cánh cửa thang máy lại mở ra rồi khép lại. Mở. Khép. Mở. Khép. Mở. Không gian trở nên lạnh lẽo.
Tina thở dài, nói, “Danny đó. Nó đang chỉ đường cho chúng ta.”
Dầu sao họ vẫn thận trọng tiến đến gần cửa thang máy rồi lo lắng nhìn vào. Bên trong trống trơn và họ bước vào. Mấy cánh cửa khép lại. Theo bảng chỉ số tầng nằm phía trên cửa, họ biết đang ở tầng bốn của tòa nhà bốn tầng. Tầng một là tầng ở sâu nhất bên dưới. Bảng điều khiển thang máy không thể hoạt động nếu người sử dụng chưa đặt thẻ nhận diện vào một rãnh ở phía trên. Nhưng Tina và Elliot khỏi phải cần đến những thứ đó vì đã có Danny lo hết. Bảng số nhảy từ số bốn xuống ba rồi hai, và không khí bên trong thang máy chợt lạnh buốt khiến Tina thở ra những cụm mây hơi nước. Các cánh cửa mở ra ở tầng ba dưới mặt đất. Họ bước ra một hành lang giống hệt hành lang họ đã bước vào ở trên kia. Cửa thang máy khép và không khí chung quanh ấm trở lại. Cách chỗ họ gần hai mét, một cánh cửa mở hé, và bên trong vọng ra tiếng người nói chuyện sôi nổi. Giọng đàn ông lẫn đàn bà. Căn cứ theo âm thanh có thể đoán chừng họ khoảng sáu hoặc bảy người hoặc hơn. Có thể nghe tiếng cười nhưng tiếng nói nghe không rõ. Tina biết đời họ sẽ coi như tàn nếu có ai trong đó bước ra và trông thấy họ. Danny có quyền thuật với đồ vật chứ không điều khiển được con người, vụ đụng độ với mấy gã an ninh vừa rồi ở trên kia là một ví dụ và khiến Elliot phải nổ súng. Nếu họ bị phát giác và phải đối đầu với một đám nhân viên an ninh hung hãn, một khẩu súng trong tay Elliot khó lòng đẩy lui cuộc tấn công. Rồi, cho dù Danny có giúp làm cho mấy khẩu súng kia bị kẹt đạn, nàng và Elliot không thể thoát thân nếu không ra tay tàn sát, điều mà nàng biết rõ cả hai đều không có bụng dạ đâu để có thể giết quá nhiều người như thế, dù cho đó là hành động tự vệ.
Elliot nói nhỏ, “Đi đâu bây giờ ?”
“Em không biết.”
Tầng này có cùng kích thước như tầng ở trên cùng, với kích thước bề một trăm ba mươi lăm mét, bề ba mươi lăm. Có bao nhiêu phòng tất cả ? Bốn mươi ? Năm mươi ? Sáu mươi ? Một trăm ? Đến khi Tina gần tuyệt vọng thì không gian trở lạnh lần nữa. Nàng nhìn quanh, chờ dấu hiệu nào đó của con trai nàng, rồi cả hai ngạc nhiên khi đèn ống nê-ông trên đầu họ chớp tắt. Sau đó đến cái khác ở bên trái chớp tắt rồi đến lượt cái thứ ba ở xa hơn cũng về bên trái chớp tắt. Họ đi theo những đèn chớp ấy đến cuối hành lang nơi có một cánh cửa thép giống cửa dưới tàu ngầm, đóng kín bằng khí nén. Tay nắm hình bánh xe của cánh cửa bắt đầu xoay và cánh cửa mở ra. Vì có súng nên Elliot bước vào trước và Tina đi sát theo sau.
Họ vào trong một gian phòng bề 15 mét bề tám. Ở đầu kia của phòng là một khung cửa sổ choán gần hết trung tâm của bức tường ngắn, mặt kính của cửa sổ có màu trắng đục vì đang bị băng giá. Bên phải cửa sổ là một cửa lớn giống hệt như cái họ vừa bước vào. Phía bên trái, các computer và những dụng cụ khác nằm trải theo chiều dài của căn phòng. Thật nhiều màn hình mà Tina không thể đếm hết qua một cái liếc mắt, hầu hết đang hiện ra các dữ kiện dưới hình thức biểu đồ, đồ thị và con số. Mấy cái bàn được xếp dọc theo bức tường thứ tư, chất đầy trên đó là sách, hồ sơ và vô số dụng cụ mà Tina không nhận biết được là những gì. Một người đàn ông tóc quăn, râu mép rậm ngồi bên một trong những cái bàn ấy. Ông ta người cao, đôi vai rộng, tuổi chừng ngoài năm mươi, mặc chiếc áo choàng trắng của y sĩ. Ông đang lật mấy trang giấy khi Tina và Elliot bước vào. Một người đàn ông khác trẻ hơn, mày râu nhẵn nhụi, cũng mặc áo choàng trắng, ngồi trước một máy computer, đọc những thông tin đang hiện ra trên màn hình. Cả hai cùng ngước lên, họ đều kinh ngạc và nói không nên lời.
Elliot vừa chĩa khẩu súng có gắn nòng hãm thanh về phía hai người đàn ông vừa nói với Tina, “Em đóng cánh cửa sau lưng và khóa lại nếu làm được. Lỡ tụi an ninh có phát giác chúng ta ở đây thì ít ra cũng chưa đụng tay đến mình được ngay.”
Nàng xô cánh cửa thép đóng chặt lại. Mặc dù cánh cửa hết sức nặng nhưng lại di chuyển một cách nhẹ nhàng, Tina thấy còn nhẹ hơn cánh cửa thông thường ở nhà. Nàng xoay tay vặn hình bánh xe và trông thấy một cái chốt. Nàng ấn vào đó để không ai có thể xoay tay vặn để mở cửa được.
“Xong xuôi,” nàng nói.
Người đàn ông ngồi trước computer bắt đầu đưa tay lên gõ vào bàn phím.
“Ngừng lại,” Elliot khuyên.
Nhưng gã vẫn không ngưng tay chừng nào computer chưa khởi động hệ thống báo động. Vụ này Danny có thể sẽ can thiệp vào được mà cũng có thể không, nghĩ vậy nên Elliot bắn một phát vào màn hình và kiếng vỡ tung thành nhiều mảnh vụn. Gã đàn ông thét lên, xô ghế ra và đứng phắt dậy. “Mầy là ai ?”
“Tao là kẻ có súng,” Elliot cứng giọng nói. “Nếu chừng đó chưa đủ đối với mầy, tao sẽ làm cho mầy im luôn như tao mới làm với cái màn hình. Bây giờ đặt đít mầy xuống trước khi tao cho mầy vỡ sọ ra.”
Tina chưa từng nghe Elliot nói với giọng điệu như thế bao giờ, và sự hung dữ biểu lộ nơi chàng cũng đủ làm cho nàng cảm thấy ớn lạnh. Chàng có vẻ cực kỳ hung ác và có thể làm bất cứ điều gì. Gã trẻ tuổi hình như bắt đầu thấy thấm nên ngoan ngoãn ngồi xuống, mặt tái mét.
“Được rồi,” Elliot nói với cả hai. “Nếu các ông chịu hợp tác, không ai sẽ bị hại cả.”
Chàng vẫy súng về phía người lớn tuổi hơn. “Tên gì ?”
“Carl Dombey.”
“Làm gì ở đây ?”
“Tôi làm việc ở đây,” Dombey nói, có vẻ lúng túng trước câu hỏi.
“Công việc gì ?”
“Tôi là khoa học gia chuyên về nghiên cứu.”
“Ngành gì ?”
“Tôi có bằng về sinh học và sinh hóa.”
Elliot quay súng về phía người đàn ông trẻ. “Còn mầy ?”
“Còn tôi à ?” người đàn ông trẻ ủ rũ đáp.
Elliot duỗi tay dài ra, nhắm nòng súng vào ngay đầu mũi gã.
“Tôi là Bs Zachariah,”
“Sinh học ?”
“Phải. Chuyên về vi khuẩn và vi trùng học.”
Elliot hạ thấp súng xuống và nói, “Chúng tôi có vài câu hỏi, tốt nhất là hai ông nên trả lời đầy đủ.”
Dombey, người rõ ràng không muốn có thái độ anh hùng như Zachariah, ông ngoan ngoãn ngồi yên trong ghế. “Câu hỏi về gì ?”
Tina bước lại cạnh bên Elliot. Quay sang Dombey, nàng nói, “Chúng tôi muốn biết các người đã làm gì với nó, nó đâu rồi ?”
“Ai ?”
“Con trai tôi. Danny Evans.”
Đôi mắt Dombey tròn xoe, còn Zachariah thì trố nhìn nàng như nàng là người vừa mới nằm chết dưới sàn nhà bỗng nhiên ngồi dậy.
“Chúa ơi,” Dombey nói.
“Làm sao các người vào đây được ?” Zachariah thắc mắc. “Không thể. Bà không thể có mặt ở đây được.”
“Với tôi thì có thể,” Dombey nói. “Tôi biết cái công việc bẩn thỉu như thế này rồi sẽ phải kết thúc trong thảm họa mà thôi. Điều trên thực tế không thể tránh được.”
Dombey thở dài như vừa buông hết một khối nặng trên người. “Tôi sẽ trả lời hết những câu hỏi của bà, bà Evans à.”
Zachariah quay về phía ông. “Mầy không thể làm như thế !”
“Ồ, không à ?” Dombey đáp. “Nếu mầy nghĩ tao không thể thì ngồi yên mà lắng nghe đây.”
“Hãy nhớ mầy đã tuyên thệ trung thành,” Zachariah nói. “Một lời thề bí mật. Nếu mầy nói với họ bất cứ điều gì về việc này … nào là tai tiếng … công luận phẫn nộ … đó là tiết lộ bí mật quân sự …” Gã tuôn ra một tràng. “Mầy sẽ là một tên phản bội đất nước.”
“Không,” Dombey nói. “Tôi sẽ bị xem là kẻ phản bội đối với cơ sở nầy, là kẻ phản bội đối với bạn đồng sự, có thể như thế. Nhưng tôi không là kẻ phản bội đối với đất nước tôi. Đất nước tôi quá sức toàn thiện. Những gì đã làm đối với Danny Evans là điều mà đất nước tôi sẽ không chấp nhận. Toàn thể dự án về Danny Evans là tác phẩm của một số kẻ cực kỳ điên loạn.”
“Bs Tamaguchi không phải là người điên loạn,” Bs Zachariah phản ứng như gã bị xúc phạm.
“Dĩ nhiên ông ta là kẻ cực kỳ điên loạn,” Dombey nói. “Ổng nghĩ ổng là một vĩ nhân của khoa học, hướng đến sự bất tử, một người của những công trình vĩ đại. Nhiều kẻ sát cánh quanh ổng, nhiều kẻ che chở cho ổng, những kẻ trong lãnh vực khảo cứu và những kẻ có trách nhiệm về mặt an ninh cho dự án, họ cũng là những kẻ cực kỳ điên loạn. Những việc họ làm đối với Danny Evans không cấu thành ‘công trình vĩ đại’ nào cả. Họ không mang đến sự bất tử cho một ai. Đó là thứ bịnh hoạn, và tôi muốn rửa sạch tay tôi khỏi thứ dơ bẩn ấy.”
Dombey lại nhìn Tina và nói, “Bà cứ hỏi đi.”
“Không,” Zachariah nói. “Mầy là thằng ngu.”
Elliot lấy đoạn dây còn lại từ tay Tina và trao khẩu súng cho nàng. “Anh phải trói và bịt mồm tên bác sĩ Zachariah nầy lại để có thể nghe câu chuyện của Bs Dombey mà không bị quấy rầy. Nếu có ai động đậy em cứ việc nổ súng.”
“Đừng lo,” nàng nói. “Em không chần chừ vụ nầy đâu.”
“Mầy không được trói tao,” Zachariah nói.
Mỉm cười, Elliot đi về phía gã với đoạn dây trên tay.
*
Một khối khí lạnh đổ ập lên chiếc trực thăng và tạo lực kéo xuống phía dưới. Jack Morgan vật lộn với cơn gió, cố bình ổn chiếc máy bay, đồng thời cố nâng nó lên cao hơn khỏi tầm các ngọn cây. Qua ngọn đèn pha của chiếc trực thăng, không thể thấy gì chung quanh ngoại trừ tuyết và tuyết. Morgan tháo cặp kính nhìn ban đêm ra để có thể nhìn rõ hơn.
“Điên thật,” Hensen nói. “Đây không phải là cơn bão thường mà là một trận bão tuyết.”
Không màng đến lời của Hensen, Alexander nói, “Morgan, tao nghĩ mày vẫn có thể bay đến nơi được.”
“Có thể,” Morgan nói. “Tôi mong được như thế. Bây giờ tôi sẽ bay xuôi theo chiều của gió thay vì cắt ngang nó. Tôi sẽ bay cắt ngang thung lũng phía trước rồi sau đó đánh vòng trở lại để đáp xuống. Tôi đang cố tránh những dòng đối lưu này. Chúng là sát thủ. Có thể hơi lâu hơn nhưng ít nhất chúng ta có cơ hội để đương đầu với chúng. Mong rằng động cơ chong chóng đừng bị đóng băng và khóa cứng lại.”
Một luồng gió mãnh liệt tống tuyết lên kính chắn gió với sức mạnh đến nỗi Kurt Hensen nghe như tiếng của hàng loạt viên đạn bi của súng shotgun.
Hết chương ba mươi bảy
Thảo luận
Không có bình luận