(Nguyễn Đăng Hoàng góp nhặt)
Cách đây vài giờ, kết quả Nobel văn chương 2015 vừa được Viện hàn lâm Thụy Điển công bố từ Stockholm. Ba tác giả được đánh giá có khả năng cao nhất nhận giải Nobel Văn chương năm nay là nhà văn Kenya Ngugi Wa Thiong’o, tác giả Nhật Bản Haruki Murakami và Svetlana Alexievich. Nữ tác giả 67 tuổi, người Ukraina, Svetlana Alexievich cuối cùng đã thắng.
Trong lịch sử giải Nobel văn chương cho đến nay, chỉ có 14 nữ tác giả trong số 112 người thắng giải. Nữ tác giả gần đây nhất thắng Nobel là nhà văn Canada Alice Munro (2013).
Svetlana Alexievich sinh ngày 31-5-1948 tại thị trấn Ivano-Frankovsk ở Ukraina. Thân phụ bà là người Belarus và thân mẫu là người Ukraina. Cha mẹ cùng làm giáo viên nhưng Svetlana Alexievich sớm bắt đầu công việc làm phóng viên tại một tờ báo địa phương ở thị trấn Narovl.
Svetlana Alexievich là một người cầm bút điển hình trong thế hệ Chiến Tranh Việt Nam, đó là nhà báo cũng vừa là nhà văn và ngược lại. Tác giả văn chương không còn là khuôn mặt của chữ nghĩa và sách vở đắm mình với thế giới tưởng tượng, suy tư của văn bút mà là một con người sống thực, lao vào giữa cuộc đời để trải nghiệm và tìm tư liệu thực tế cho những dòng văn của mình.
Svetlana Alexievich đã nói trong một cuộc phỏng vấn là bà luôn luôn truy tìm một phương pháp sáng tác văn chương gần nhất với cuộc sống hiện thực để làm chất liệu cho tác phẩm của bà.
Tác phẩm sống thực được đánh giá cáo nhất là Voices From Chernobyl (Tiếng kêu từ Thảm Hoạ Nguyên Tử Chernobyl) trong đó bà đã lăn lộn truy tìm những nhân chứng sống và thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với những nạn nhân còn sống sót cũng như giới cầm quyền có trách nhiệm trong thảm hoạ hạt nhân. Bà cũng đã từng phỏng vấn hàng nghìn nhân chứng trải nghiệm thời Liên bang Xô Viết trong Thế chiến II, Chiến tranh Liên Xô – Afghanistan (1979 – 1989), sự sụp đổ của Liên Xô (1991) và thảm họa hạt nhân Chernobyl (1985).
Có thể nói sự nghiệp văn chương của nữ văn sĩ Svetlana Alexievich là bức tranh sống động của Liên bang Xô Viết trong dòng lịch sử nhân loại.
Cuốn sách đầu tiên của Svetlana Alexievich là War’s Unwomanly Face (Cuộc Chiến Không Có Bóng Đàn Bà) với nguồn tư liệu chắt lọc và đúc kết lấy từ những cuộc phỏng vấn với hàng trăm phụ nữ từng tham gia Thế chiến II. Tiểu thuyết là những dòng tự sự của các nhân vật nữ từng trải qua chiến tranh. Năm 1985, cuốn sách đã được thế giới đón nhận nhiệt tình với số bản in bán ra gần 2 triệu cuốn. Bà cũng được nhìn nhận là người bạn của thế giới trẻ thơ bất hạnh với những tác phẩm được xem là Văn – Báo (báo chí – văn chương) như The Last Witnesses: the Book of Unchildlike, Zinky Boys (1992)
Những tác phẩm nổi tiếng của Alexievich đã được dịch và xuất bản ở hơn 25 quốc gia, trong đó có tiểu thuyết War’s Unwomanly Face được Nguyên Ngọc dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ (Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 1987).
Giải Nobel Văn Chương và giá trị tượng trưng của nó
Theo nhận định chung của cộng đồng quốc tế thì Thụy Điển là một vương quốc trung lập, tiên tiến với nền văn hiến lâu đời. Họ xem giải thưởng Nobel là một sự tiêu biểu cho danh dự và niềm tự hào quốc gia nên ảnh hưởng chính trị và tính chất thời sự nhất thời không có tác động trực tiếp trên sự đánh giá tuyển chọn giải thưởng.
Để có một nhận định chính xác hơn về sự khách quan và nguyên tắc tuyển lựa chặt chẽ của Hàn Lâm viện Thụy Điển và Hội đồng chấm giải Nobel, thử nhìn sơ lược phương thức làm việc của họ như sau:
Trên danh nghĩa, Hàn lâm viện Thụy Điển là cơ quan tuyển chọn giải thưởng Nobel, nhưng trên thực tế thì quá trình chọn lựa nầy là một công trình đóng góp tập thể của các học giả, chuyên gia, tác giả, thi văn nghệ sĩ… có uy thế và uy tín từ nhiều nơi trên thế giới. Trình tự về thời gian tuyển lựa giải Nobel văn chương được quy định theo một nguyên tắc không thay đổi rằng:
Thời gian bắt đầu từ đầu mùa Thu năm trước, khi Hàn lâm viện Thụy Điển mời tất cả các nhân vật được biết đến trên toàn thế giới nộp danh sách các ứng viên được đề cử. Mỗi nhân vật đề cử đều phải viết “đề nghị thư” để trình bày và bảo vệ cho lý do chọn lựa của mình. Tự đề cử mình làm ứng viên hoàn toàn không được chấp nhận. Tất cả danh sách các ứng viên được đề nghị đều phải nộp cho Hội Đồng Hàn lâm viện trước ngày mồng 1 tháng 2 hàng năm. Mỗi năm, có khoảng 1000 ứng viên được đề nghị cho giải thưởng Văn chương Nobel, trong đó có chừng từ 100 đến 250 là nhà văn. Số ứng viên đề nghị nầy được cộng chung với các ứng viên do chính các thành viên trong Hội Đồng và Hàn lâm viện tuyển lựa.
Giai đoạn kế tiếp, Hội Đồng tuyển chọn lọc lại còn 15 ứng viên và danh sách nầy phải hoàn thành trong tháng 4. Cuối tháng 5, số ứng viên được tuyển chọn vào vòng chung kết còn lại là 5 người. Có hàng trăm nhân vật tên tuổi trong lãnh vực văn chương khắp thế giới phụ tá cung cấp tất cả các nguồn tư liệu về tác phẩm, sáng tác và các công trình biên khảo liên quan đến 5 ứng viên nầy.
Sau khi sử dụng suốt mùa Hè để đọc, nghiên cứu và phân tích giá trị văn chương tất cả tác phẩm của từng ứng viên một trong tổng số 5 nhân vật vào chung kết, Hội Đồng Giải Nobel đệ trình Đề Nghị của họ lên Hàn lâm viện Thụy Điển. Tháng 10, Hàn lâm viện tiến hành một cuộc bỏ phiếu kín để chọn người trúng giải.
Trong lịch sử giải Nobel văn chương, có rất ít các ứng viên lần đầu tiên được đề cử được giải thưởng liền trong năm đó. Thường các ứng viên không được tuyển chọn sẽ được Hội Đồng đưa ra thẩm định, xét đi, xét lại trong những năm tiếp theo bởi vì Hàn lâm viện Thụy Điển căn cứ trên toàn bộ sự nghiệp văn chương của một nhà văn, nhà thơ… để đánh giá chứ không chỉ căn cứ trên một tác phẩm hay một công trình đơn lẻ nào đó mà thôi. Bởi vậy, giải Nobel Văn chương là giải thưởng của một sự nghiệp văn chương chứ không phải là giải thưởng dành cho một tác phẩm xuất sắc.
Giải Nobel Văn chương không hẳn là thước đo chuẩn xác tuyệt đối để thẩm định giá trị văn chương và tài năng đích thực của một tác giả. Tuy nhiên, đối với thế giới văn bút toàn cầu thì giải thưởng nầy vẫn là một giải thưởng văn chương sáng giá và được kính trọng nhất trong lịch sử văn học quốc tế suốt 100 năm qua. Chính tên tuổi lẫy lừng của người trúng giải đã mang đến sự vinh quang cho giải thưởng, hơn là chính giải thưởng Nobel tự nó mang hào quang đến cho người nhận giải.
Nói một cách công bằng thì chiếc huy chương nào cũng có mặt giới hạn của nó. Trong lịch sử văn học thế giới, cũng đã có nhiều thi hào, văn hào kiệt xuất nhưng vẫn bị “sẩy” giải Nobel Văn Chương trong khi những tên tuổi đương thời khác ít lẫy lừng hơn lại được. Có thể kể một số trường hợp điển hình như: Tolstoy, Proust, Hardy, Chekhov, Ibsen, James Joyce, Joseph Conrad, Kafka, Bretch… là những tài năng văn chương tuyệt vời của nhân lọai nhưng vẫn không được trao giải thưởng Nobel Văn Chương.
Và trong một nhận định có tính cách tương đối thì hầu như các nhà văn, nhà thơ được giải Nobel Văn Chương trong một thế kỷ qua đều có một giá trị nhất định trong thế giới văn bút. Từ Prudhomme, nhà thơ đầu tiên được giải văn chương Nobel năm 1901 cho đến J.M. Coetzee năm 2003, những tác giả đoạt giải Nobel có thể khác nhau về nhiều mặt, nhưng tất cả đều có chung một điểm là bên cạnh bề rộng của sự nghiệp văn chương rỡ ràng, còn có bề sâu của tác phẩm. Những tác phẩm tiểu thuyết, thi ca, triết học, biên khảo… của họ là những cái giếng thăm thẳm của tư tưởng, những ngọn núi sừng sững của suy tư. Sự nông cạn và dễ dãi chỉ có thể sản xuất ra nhiều mớ bung xung của chữ nghĩa, nhưng sẽ chẳng bao giờ có đất đứng trong văn chương.
Biển kiến thức và con đường ý thức nhân loại khởi đi một cách êm đềm từ những đầu óc “uyên áo” như: Socrate, Platon, Aristote, Kant, Bergson, Spinoza, Schopenhauer, Augustine… bỗng gặp những ý hướng ly khai và những tâm hồn nổi loạn của Dostoievski, Camus, Sartre, Faulkner, Gide… đón đường tung hô và đập phá. Dostoievski khắc khoải và trăn trở trong một bối cảnh quê hương đang chuyển mình đau nhức; Camus kêu lên cho nỗi đau đớn của kiếp người; Sartre gào la thống thiết cho sự tan hoang về những giá trị vật chất và tinh thần của một thế giới gần như tuyệt vọng; Faulkner cuồng nộ trong tiếng gọi khẩn thiết của nhân sinh… và cả một trào lưu văn nghệ vừa vuốt vừa đập, vừa trân trọng vừa chối bỏ, và bão liệt hơn cả là trùng trùng dẫm trên những lối mòn quen nằm yên trong sương nắng của thế kỷ 18, 19 để xua quân vào sâu, rất sâu, tận những chân trời mới lạ và sâu thẳm của ý thức khai phá trong văn nghệ và triết học thế kỷ 20!
Trong khi nền văn học Tây Phương đang chuyển mình dữ dội: Từ tĩnh sang động; từ bề mặt sang bề sâu; từ sự chấp nhận và thỏa hiệp dễ dãi sang thái độ đương đầu, phân tích và luận lý có khi tới mức độ bất chấp thì ở Việt Nam, văn chương vẫn còn tiến những bước êm đềm theo khung cảnh của một xã hội nông nghiệp. Trước 1945, học giả Phạm Quỳnh khi “Khảo Về Tiểu Thuyết” vẫn còn khuyên các nhà văn theo cách kết cấu cổ điển của Pháp: “Nếu kết cấu không thành truyện thì dẫu văn chương có hay đến đâu cũng không cảm được người đọc”. Và sau 1945, ông Đặng Thai Mai trong “Văn Học Khảo Luận” lại lên tiếng: “Một áng danh văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử bổ ích và làm vui”! Bởi vậy cả một trào lưu văn học Việt Nam trong khung cảnh thế kỷ 20 vẫn chưa thoát khỏi tình trạng loay hoay biến những tác phẩm văn chương thành những tập chuyện kể. Hoặc có tiến xa hơn nữa thì cũng loanh quanh trong giới hạn “Tiểu thuyết tâm lý xã hội tình cảm” lâm ly ướt át, vô thưởng vô phạt… khá phổ biến ở miền Nam; hay khuynh hướng “Hiện thực phê phán” sáo mòn và đồng phục, thiếu sức bật được cấp trên chỉ đạo trong suốt thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam và kéo dài lê thê sang thế kỷ 21!
Trước thực trạng “Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ săn giòn hơn ta”, chúng ta cần có những phút lắng lòng chân thành nhìn lại chính mình và gia tài tri thức của đất nước mình.
Trong lãnh vực văn chương, Việt Nam ta không thiếu nhân tài, nhưng thiếu mất một hệ thống triết lý truyền thống làm nền móng cho nếp suy nghĩ của dân tộc và thiếu hẳn một tinh thần phiêu lưu, khai phá và phản kháng trong sáng tạo. Nhìn lại nền văn học Lý Trần và Lê Nguyễn cổ điển, chúng ta chưa thoát ra khỏi hệ tư tưởng của Trung Hoa và Tam Giáo (Nho, Thích, Lão). Những tài năng ưu tú của dân tộc trong dòng văn học Hán Nôm đã chứng tỏ khả năng ưu việt trong sức sáng tạo và diễn đạt ngôn từ, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng “kim cô” nghiệt ngã của văn chương Trung Hoa về hệ thống tư tưởng và nề nếp suy tư. Một tài năng phiêu dật và hoa gấm trong ngôn ngữ thi ca như Nguyễn Du vẫn không vượt thoát được thế giới tư tưởng giới hạn của Thanh Tâm Tài Nhân trong một tác phẩm tiêu biểu cho niềm tự hào dân tộc như Đoạn Trường Tân Thanh.
Trong nền văn học cận đại, chúng ta có Tự Lực Văn Đoàn, có những nhà văn và tác phẩm đã đi vào giáo khoa văn xuôi như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Bình Nguyên Lộc… và giáo khoa thi ca như các thi sĩ tiền chiến: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương… Nhưng nếu tiếp cận với nền văn chương Tây Phương của thế kỷ 19 & 20, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi đâu là chân trời mới có tính cách “độc sáng” của nền văn chương thuần Việt? Khi mà những bóng ma và hào quang của Balzac, Hugo, Dumas, Zola, Stendhal, Flaubert, Maupassant… và những rung động véo von của Lamartine, Verlaine, Baudelaire, Rimbeaud… trong văn chương Pháp vẫn cứ “trêu ngươi” như những tác gia khổng lồ chận đường sáng tạo của thế hệ văn thi sĩ đàn anh. Dù thể hiện rõ nét hay bàng bạc trong những hành trạng của nhân vật, trong hình tượng nghệ thuật, trong phong thái diễn đạt hay cả trong thủ pháp hư cấu và cường điệu… chúng ta vẫn thấy cuộc chiến đấu rất “dũng cảm” nhưng cũng đầy hệ lụy của giới văn bút đàn anh chúng ta để phá vòng vây ảnh hưởng thâm căn cố đế của dòng văn chương Tàu và Tây vẫn còn “mờ mờ nhân ảnh, bất phân thắng bại”. Hay nếu cần phải nói một cách thẳng thắn – tuy có thể hơi vô lễ nhưng rất chân thành chăng? – rằng là, dòng văn chương của chúng ta giỏi bắt chước và khéo mô phỏng nhưng chưa giỏi sáng tạo; thiếu hẳn một sự khẳng định (để tiến tới một sự định hình cần thiết) về bản sắc Việt Nam thuần túy của mình trong văn chương.
Viễn ảnh một giải Nobel Văn Chương cho tác giả Việt Nam
Có dịp theo dõi “Những Mùa Thu Nobel Văn Chương”, mỗi chúng ta đều hướng mắt nhìn về khả năng tương lai của một giải Nobel Văn chương cho tác giả Việt Nam.
Trong số gần 112 nhà văn, nhà thơ trên toàn thế giới được giải thưởng Nobel văn chương mỗi năm từ năm 1901 đến nay, châu Á chỉ có 5 người: Rabindranath Tagore (Ấn Độ, 1913), Yasunari Kawabata (Nhật Bản,1968), Kenzaburo Oe (Nhật Bản, 1994), Cao Hành Kiện (Trung Hoa, 2000) và Mo Yan (Trung Hoa 2012). Đất nước và thời gian có khác, nhưng cả năm chàng “văn chương nết đất” phương Đông nầy đều có một đặc tính chung là rất đa tài. Tagore là một thi hào, nhà văn, nhà triết học, và cũng là một nhạc sĩ đã sáng tác trên 3000 bản nhạc. Là nhà văn nhưng Oe cũng là một nhà thơ được yêu chuộng của Nhật. Ngoài ra Oe còn là một nhà viết phê bình, luận thuyết đầy thuyết phục quần chúng và thu phục nhân tâm. Kawabata cùng là một danh họa và nhà thơ. Cao Hành Kiện, bên cạnh sự nghiệp văn chương, là một kịch tác gia có kịch bản được lưu diễn nhiều nơi trên thế giới. Cao cũng là một họa sĩ đã từng triển lãm tranh ở Paris, London, New York… Nhưng trên tất cả là tinh thần nhân bản, lòng trân trọng con người và lý tưởng thiết tha với sự tự do và công bằng xã hội được thể hiện qua đời sống và tác phẩm của bốn nhân vật nầy. Tagore sống trong giai đọan Ấn Độ còn dưới quyền thuộc địa của Anh; Kawabata lớn lên trong khung cảnh thoái trào của chế độ quân phiệt Nhật, Oe lớn lên với cảnh điêu tàn của nước Nhật trong Thế chiến thứ hai; và Cao trưởng thành sau bức màn tre của thời Mao Trạch Đông. Cả bốn nhà văn lớn đó – những cái “Nhà” rất đúng nghĩa trong văn chương – đều đã không thỏa hiệp với sự bất công, đày đọa và tha hoá con người của chế độ chính trị trong thời đại của mình. Ngòi bút của họ đã tìm đến với con người có tâm hồn, có bản ngã và giàu nhân tính.
Thực tế nầy đã giải tỏa định kiến cho rằng, giải Nobel là sản phẩm Tây Phương, nên kỳ thị sản phẩm văn chương không phát xuất từ Phương Tây, cả trong nguồn gốc xuất thân của tác giả và ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm. Và cũng chính thực tế nầy cho thấy rằng, những nhà văn phản kháng thế lực chuyên quyền và áp bức; những nhà văn lưu cư và bị lưu đày, bị bứng ra khỏi nguồn cội quê hương thường đã mang cái “chủng tử” của một nhà văn lớn. Nhưng môi trường văn hóa và xã hội nào để cho “chủng tử nhà văn lớn” được nẩy mầm, đơm hoa kết trái thành cây đại thụ văn chương?
Khi nói đến nền văn chương và triết học Tây Phương, người ta có khuynh hướng nhắc đến Âu và Mỹ. Hai nước đại biểu cho Âu và Mỹ có bối cảnh văn chương, truyền thống văn hoá, nền móng triết học hoàn toàn khác nhau là Pháp và Hoa Kỳ. Điểm đáng chú ý là về “tuổi tác” của hai nước: Nước Pháp tính từ thời bộ tộc Celts, đã ngót 3.000 tuổi thọ; trong khi Mỹ lập quốc chỉ mới 300 năm. Pháp là chiếc nôi văn chương của Châu Âu, trong khi Mỹ là chiếc nôi kỹ nghệ của Phương Tây, nhưng điều lý thú là tỷ số các thi tài và văn tài đọat giải văn chương Nobel của hai nước lại dẫn đầu và thứ nhì trong suốt 114 năm qua. Pháp đã chiếm 17 giải văn chương trong tổng số 62 giải Nobel thuộc nhiều lĩnh vực : Prudhomme (1901), Mistral (1904),Maeterlinck (1911), Rolland (1915), France ((1921), Bergson (1927), Martin du Gard (1937), Gide (1947), Mauriac (1952), Camus (1957), Perse (1960), Sartre (1964), Bekett (1969), Simon (1985), Xingjian (2000), Le Clézio (2008), Modiano (2014).1901
Mỹ đứng thứ nhì với 13 giải văn chương Nobel trong tổng số 353 giải Nobel thuộc nhiều lĩnh vực: Lewis (1930), O’Neil (1936), Buck (1938), Eliot (1948), Faulkner (1949), Hemingway (1954), Steinbeck (1962), Bellow (1976), Singer (1978), Milosz (1980), Brodsky (1987), Walcott (1992), Morrison (1993).
Cũng trong suốt một thế kỷ văn học với giải Nobel này thì Anh được 7 giải, Đức được 6 giải, Liên Bang Sô Viết được 4 giải và trong số 4 giải này thì riêng Nga chỉ được một giải của Ivan Bunin năm 1933.
Như vậy, yếu tố nào đã khiến Mỹ là kẻ “ăn sau chạy dọi” lại tạo được một ưu thế văn chương như thế? Các nhà nghiên cứu văn học thế giới đưa ra nhiều luận điểm khác nhau về câu hỏi này. Nhưng tựu trung có những điểm chính sau đây:
– Về văn hóa: Mỹ là một quốc gia hợp chủng nên văn hóa Mỹ là một văn hóa hợp chủng. Sự “thuần nhất” của Mỹ lại chính là sư đa dạng và sự dung hợp tất cả mọi khuynh hướng đa dạng và khác biệt đó thành một sức sống mới mang tính thực tế, nặng lý tính và mày vẻ cá nhân. Mỹ không có một hệ thống triết lý dân tộc riêng, nhưng lại là một môi trường thuận lợi để “tập đại thành” và dung hóa những trào lưu triết học và văn học thế giới để tạo thành một triết lý “Duy Mỹ” (Americanism, chứ không phải Aestheticism).
– Về văn nghệ: Hoàn toàn tự do trong sáng tạo. Người nghệ sĩ không bị khống chế bởi bất cứ những tiêu chí, yêu cầu hay chỉ đạo nào ngoài chính tài năng, tư duy và sự chọn lựa của riêng mình. Chỉ có người thưởng ngọan nghệ thuật, độc giả và thời gian là sự thử thách ghê gớm nhất đối với người nghệ sĩ; là thước đo, là sự đánh giá chuẩn xác nhất giá trị của tác phẩm nghệ thuật.
Từ xa, nhìn về tổ quốc, bất cứ đứa con Việt Nam tha hương nào cũng mang nhiều ước vọng cho một tương lai tươi sáng của quê cha đất tổ mình. Có những hiện thực mà khi còn ở quê nhà mình mặc nhiên chấp nhận, nhưng khi sống ở xứ người, tiếp cận với những nhóm dân tộc khác, lại trở thành câu hỏi. Mấy ai đang ở trên quê hương lại tẩn mẩn băn khoăn tự hỏi: “Ta là ai giữa vùng đất nầy?” hay “Ta là người Việt Nam, có nề nếp suy tư, có phong cách cuộc sống khác với những người Tàu, Tây, Nhật, Thái, Miên, Lào, Nga, Mỹ… quanh ta như thế nào?” Văn hóa và phong tục tập quán Việt Nam đang nhạt dần trước nhu cầu cuộc sống đòi hỏi phải dấn thân, phải điều chỉnh, có khi phải đồng hoá hay bị đồng hoá với xã hội mới để sống còn. Duy nhất chỉ còn ngôn ngữ và văn chương là những thành lũy Việt Nam còn đứng vững được để xác lập, để định nghĩa Ta-Việt-Nam là ai và Việt-Nam-Ta là gì!
Dòng văn học học hải ngoại, do đó, không chỉ là một hình thái tiêu khiển, một món ăn tinh thần như khi còn ở quê nhà mà còn là một “căn cứ địa” cuối cùng của bản sắc Việt Nam cho hôm nay và cho thế hệ tương lai trong mối tương quan đa chủng tộc và giữa lòng thế giới.
Một cách vô hình trung, văn chương Việt Nam có hai dòng văn học: Dòng văn học Quê Nhà và Dòng văn học hải ngoại. Nhận định tổng quan về yếu tính của hai dòng văn học, ông Hoàng Hải viết trong báo Thế Sự (09-2013) rằng: “Thực tế và kinh nghiệm Việt Nam qua cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ nhất trong lịch sử thế giới cận đại là cả một gia tài tư liệu khổng lồ và cảm hứng chất ngất cho giới văn bút Việt Nam. Thế nhưng đã 40 năm trôi qua mà vẫn chưa có một tác phẩm văn chương nào phản ánh hiện thực lịch sử và đất nước, con người Việt Nam xứng đáng mang tầm cỡ quốc tế. Dòng văn học nội địa có vẻ như thiếu bắp thịt để xiển dương nội lực cho sự hình thành một tác phẩm văn chương gây được sự hâm mộ của cộng đồng văn bút quốc tế. Còn dòng văn học hải ngoại thì dường như bị thiếu máu nên phần lớn những tác phẩm văn thơ ra đời kể lể than van bao sự cố đã thành cố sự, chưa gây được sự chú ý của giới văn bút Âu, Mỹ… Nếu đem so với những nhà văn, nhà thơ thế giới đã chiếm được hay được đề bạt giải Nobel thì giới văn bút Việt Nam ta lại vừa gần vừa xa: Gần vì cũng có tài năng văn chương như ai; nhưng xa vì phần lớn viết theo kinh nghiệm ‘khôn vặt’ dễ dãi hơn là sự từng trãi đi xa hiểu rộng kết hợp với nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu khách quan và có hệ thống giáo khoa cơ bản.”
Theo dõi sinh hoạt văn học nghệ thuật trong nước và ngoài nước, bên cạnh giới văn nghệ đàn anh phần đông đã mỏi mệt, hoặc đang sống bằng ảo ảnh một thời vang bóng, sáng tác cầm chừng theo trung bình chủ nghĩa, thì giới văn bút trẻ thuộc thế hệ đàn em sau chiến tranh Việt Nam đang vươn lên. “Lực lượng sáng tác” thật sự có tài năng là điều quan trọng cốt lõi đã đành, nhưng khung cảnh và hoàn cảnh sáng tác cũng đóng một vai trò thiết yếu để cho những tác phẩm văn chương lớn ra đời. Trong nước, ai chịu trách nhiệm về khung cảnh và hoàn cảnh sáng tác hiện tại? Ngoài nước, khung cảnh sáng tác mang tính tự phát nên mỗi con người văn nghệ chịu trách nhiệm với chính mình trong sáng tạo.
Và đấy cũng chính là ước vọng cháy bỏng của kẻ di dân thời hậu chiến, vì hoàn cảnh phải sống tha hương nhưng luôn luôn quay quắt đi tìm lại gốc gác của mình. Họ đã trộn lẫn chất liệu từ một quê hương xa cũ trên vùng đất của tổ tiên, kết hợp với tri thức và kinh nghiệm của những gì đang sống để sáng tạo. Những nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại ở quê nhà và rãi rác trên khắp năm châu đã và đang trải qua nhiều hoàn cảnh và kinh nghiệm sống thực khác nhau. Nhưng trong sáng tạo, một nghệ sĩ chân chính dù đang ở trên quê hương hay trở thành công dân nước khác vẫn có sự gắn kết thiết thân với quê hương nguồn cội của mình như trường hợp Joseph Brodsky (Nobel 1987) từ Nga qua Mỹ, Elias Canetti (Nobel 1981) từ Bungary qua Anh, Czeslaw Milosz (Nobel 1980) từ Ba Lan qua Mỹ, Cao Hành Kiện (Nobel 2000) từ Tàu sang Pháp, V.S Naipaul (Nobel 2001) từ Ấn qua Anh…
Văn chương khác với kinh tế và kỹ thuật vì không có hiện tượng phồn vinh đột biến. Không thể có người tháng trước làm thơ con cóc, bỗng tháng sau thi tài phát tiết như Nguyễn Du trong văn chương. Sáng tạo văn chương là một quá trình tiệm tiến. Những nhà văn lớn đều lấy thời gian cả cuộc đời mình để vun đắp cho bề dày, bề cao và bề rộng của sự nghiệp văn chương.
Bởi vậy khi nói đến một viễn ảnh về giải văn chương Nobel cho giới văn bút Việt Nam khó mà khẳng định thời điểm và con người. Trong 40 năm qua của thời hậu chiến Việt Nam, chúng ta chưa có một nhà thơ hay nhà văn nào là đương kim “siêu sao văn chương” cho thế giới người Việt, nói chi đến viễn ảnh xa xôi của thế giới con người.
Người Việt vẫn thường tự hào mình là một dân tộc thi ca. Mong rằng, “Viễn Ảnh” tuy mơ hồ, nhưng là niềm hy vọng chứ không phải là ảo tưởng.
Sacramento, Mùa Thu Nobel 8-10-2015
Trần Kiêm Đoàn
From: Tống Mai
Oct 8, 2015
Bà Svetlana được giải là đúng lắm. Mai vẫn phục cuốn sách của bà hồi xưa “War’s Unwomanly Face” (Chiến Tranh không có gương mặt của phụ nữ) của bà trong đó có hàng trăm tiếng nói của những nguoi đàn bà về ký ức chiến tranh của họ thật cảm động.
Bà đã phỏng vấn hàng trăm phụ nữ và ghi lại câu chuyện của họ, cũng giống như chị Nhã Ca đã làm sau thảm sát Mậu Thân để viết ra “Giải Khăn Sô Cho Huế.”
Mai recommend cuốn sách này.
Tống Mai
Giải Nobel văn học 2015 vừa được trao cho Nhà văn Svetlana Alexievitch (Bielorussia, thuộc Liên Xô cũ). V.V xin mời các bạn đọc một bài phỏng vấn nhà văn về tác phẩm «Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ» đăng trên tạp chí Sông Hương năm 2012. Tác phẩm này đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch và xuất bản năm 1987 (NXB Đà Nẵng)
Xvet-la-na và tác phẩm “Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ”
L.T.S: Gần đây ở Liên Xô tên tuổi của nhà văn nữ trẻ tuổi Xvet-la-na A-lêch-xi-ê-vich (Svetlana Alexievitch) trở nên quen thuộc và thân thiết với nhiều đối tượng độc giả qua tác phẩm “Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ”.
Từ chất liệu kết cấu phong phú, Xvet-la-na đã cho độc giả hiểu đầy đủ hơn về đức tính dũng cảm và sự hy sinh tuyệt vời của phụ nữ Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Xvet-la-na đã nhận được giải thưởng Nicôlai ôxtơrôtxki, và tác phẩm của chị đã được dựng thành phim, thành kịch công diễn trên các nhà hát lớn toàn Liên Xô.
Dưới đây chúng tôi trích giới thiệu bài phỏng vấn Xvet-la-na “Ký ức chân thật và cay đắng” và phần trích tác phẩm “Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ”.
KÝ ỨC CHÂN THẬT VÀ CAY ĐẮNG
– Chị Xvet-la-na, xin chị vui lòng cho chúng tôi biết về bản thân chị và những người anh hùng trong đoàn thiên tiểu thuyết của chị?
– Tôi xuất thân từ một gia đình làm nghề giáo ở nông thôn. Tuổi thơ của tôi trôi qua với tháng ngày vui thú đọc sách và nô đùa giữa thiên nhiên. Rồi sau đấy vào trường đại học và nghề làm báo. Tháng năm trôi qua, dần dà một tình cảm kỳ lạ đã chiếm ngự lòng tôi. Gần đến năm ba mươi tuổi tôi còn chưa sáng tác được gì, chưa làm nên điều gì đáng kể. Ngày tháng cứ biến mất đi như bị vùi trong cát. Rồi bất ngờ một công việc đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Hằng trăm sinh mệnh đã rơi xuống đời tôi như tuyết lở. Và hiện giờ, tôi có thể nói rằng tôi đã sống, đã chắt chiu được một ít kinh nghiệm, kinh nghiệm của kẻ khác biến thành kinh nghiệm của tôi. Một trong những nữ cựu chiến binh đã nói rằng, trở về từ mặt trận, bà cảm thấy già hơn biết bao so với những bạn bầu cùng tuổi, vì bà đã trải, đã chứng kiến bao sự biến trên đời. Trường hợp của tôi cũng vậy ; tôi đã biết điều ấy và đã hiểu được mọi sự!
“Tôi đã tiếp xúc với những mẫu người phụ nữ thật hết sức khác nhau, có người thái độ của họ quả quyết trong chiến tranh, có người bị chiến tranh đè bẹp, có người giữ được bản chất thanh khiết, lại có người bị tước mất tinh thần mơ mộng, có người e dè khép kín, có người lại cởi mở. Đó là những phụ nữ với sức mạnh tinh thần của họ, cộng với khả năng to lớn của tâm hồn nhân bản, họ đã tạo nên chủ đề cuốn sách của tôi.
– Tôi đã có dịp tham dự nhiều cuộc hội họp các độc giả và khán giả, ở đây tất cả mọi người đều đồng ý nói rằng, tác phẩm “Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ” đạt đến khả năng gây xúc động được từng người, do sự trong sáng và tính chân thật của nó. Vậy xin chị cho biết những dự kiến viết cuốn sách đã đến với chị như thế nào?
– Nhờ nhà văn Alêch Ađamôvích thuyết phục tôi rằng, trong lúc còn thời gian, nên ghi chép những kỷ niệm của những người phụ nữ đã chiến đấu. Nhưng cuốn sách viết về những người phụ nữ trong thời chiến này sẽ mang hình thức nào, tôi chỉ hình dung được thực rõ, khi đến thăm một gia đình hai vợ chồng cựu chiến binh. Người chồng đã nói về số lần mà họ phải leo lên để tiến công một cao điểm nào đó và số người chết. Máy ghi âm làm việc, nhưng lương tâm tôi thì rã rời. Người vợ cảm nhận điều này và nói chen vào: “Chị Xvet-la-na, tôi sẽ giải thích cho chị rõ hơn. Hôm ấy, tôi đi xuống hướng con kênh nơi tôi thấy những chiếc mũ lính thủy nhấp nhô trên làn nước, chúng trôi cho đến giữa trưa, khi quân Đức ném những chiếc mũ lính thủy của chúng tôi ra biển…”
“Chúng tôi tự mình phải thấu hiểu Tổ quốc mình, nỗi đau khổ đã xuyên suốt từng mái ấm, nỗi khiếp hãi đã ẩn nấp trong mỗi một con người. Điều này đã trở thành một yêu cầu. Theo ý tôi CHIẾN THẮNG sẽ bị làm cho nhỏ đi bằng những lời nhắc nhở long trọng và bằng những phát pháo hoa. CHIẾN THẮNG là vĩ đại, bởi vì con đường dẫn đến đấy đã kinh qua cả một tấn bi kịch của con người trong từng phút giây”.
– Chị Xvet-la-na, tôi biết rằng, chị đang hoàn thành tác phẩm thứ hai của chị có tựa đề là “Những người chứng sau cùng”. Xin chị vui lòng cho biết chủ đề cuốn sách này?
– Chủ đề khai sinh từ miền đất Liubang. Trong mùa hoa anh đào nở rộ – những người đàn bà luống tuổi, những người thợ giặt trước đây ở xưởng giặt miền quê, họ đang ngồi trên những bờ đất cấy dọc theo xóm nhà của họ, họ nhớ lại suốt thời gian chiến tranh họ đã giặt giũ ra làm sao, với những hàng lệ tràn lên mắt, họ cúi xuống chà xát những đống áo quần trong tiếng xùi xụt, Một người đàn ông, rất bình thường bước lại và mong tôi nên lắng nghe anh kể. Tôi còn nghe tiếng nói của người ấy. Một em bé xua bầy ngựa đi qua, ngày kia em trở lại thôn làng, em chỉ còn thấy những đống tro tàn và một con mèo trên mình mang nhiều vết phỏng đã thoát được nhờ một phép mầu từ những đám cháy, với phần cuối của chiếc đuôi là còn lông trắng. Cái gì đã đến với trái tim em bé trước thảm cảnh như vậy? Và tôi nghĩ rằng, những trẻ thơ trong thời chiến có những kỷ niệm chân thật về chiến tranh, kỷ niệm còn khủng khiếp hơn kỷ niệm của những người lớn. Bởi vậy tôi lại lên đường để ghi hàng ngàn thước băng ghi âm, hàng trăm câu chuyện kể bi thảm. Sau những em bé này sẽ không còn những người chứng nào để kể lại những điều mắt thấy, những khổ đau mà họ gánh chịu. Dù cho tuổi đời đã lớn hơn ký ức của thời thơ ấu của họ, nhưng họ đã tham dự vào với tất cả tấm lòng và trí tuệ của mình và khi tôi yêu cầu họ nhớ lại những biến cố xa xưa này, điều này đối với họ sẽ rất mệt nhọc. Có lẽ cách đây 40 năm, câu chuyện của họ là khác, cũng như vậy nhưng cùng lúc lại khác đi. Ký ức của họ vẫn chân thật cho dù được thúc giục bởi tâm lý của những người trưởng thành. Những kỷ niệm thuở ấu thời thường được kỳ-diệu-hóa, nhưng những trẻ thơ này chắc chắn sẽ đi ngược lại với chiều hướng ấy,vì nỗi sợ hãi và kinh hoàng không thể nào kỳ-diệu-hóa đi được.
Bản thảo cuốn sách đã lên máy in, nhưng tôi vẫn theo đuổi sự kiếm tìm của tôi trong khi đi ngao du đó đây. Tác phẩm này không thể chấm dứt, và tôi lại khởi động máy ghi âm.
“… Nếu trong tuổi thơ chúng tôi, tuồng như những cánh chim có vẻ bay rất cao thì chính từ tầm bay đó người ta đã nhắm bắn chúng tôi, và điều ấy, đối với chúng tôi dường như quá thấp, nên người ta tin không thể nào ngăn được loạt đạn nổ trên mặt đất…”. Đimitrixuphrăngkốp đã kể cho chúng tôi nghe những nỗi hãi hùng trong tuổi thơ của ông.
“… Sau chiến tranh rất lâu tôi vẫn còn sợ hãi mọi đồ kim khí. Trông thấy một mảnh trái phá, tôi lo lắng dè chừng nó phát nổ. Có một em bé gái láng giềng, tuổi mới lên ba, tìm gặp đâu đấy một lựu đạn, em bé vội ôm lấy và bắt đầu đẩy đưa… Mẹ của em đã không kịp thời ngăn chặn… Ở Staryé – Gôlôptêhitsy, thôn làng thuộc miền Petvikôp, hai năm sau ngày chiến tranh, người ta còn chôn cất những xác trẻ em…”, tôi nghe nói rằng ở vùng đất ruộng Gômen. Những chuyện như vậy đã không phải là chuyện bịa đặt.
“Thành phố Khvalinsk trên sông Vôn-ga đã nuôi dưỡng bảy em bé mồ côi từ Biêlôrutxia tản cư đến. Nhiều người kể với tôi rằng, khi radio loan báo miền đất Minxcơ đã giải phóng, những em bé ốm gầy nầy đã sung sướng leo lên vai nhau để ôm hôn chiếc máy phóng thanh treo ở trên tường.
“Cuốn sách của tôi không chỉ hướng về quá khứ mà người ta không thể đổi khác được, nó còn tìm về tương lai nữa. Ôi! Tôi mong biết bao những anh hùng trong sách tôi là những nhân chứng cuối cùng của chiến tranh”.
– Xvet-la-na, chị còn đeo đuổi công việc của mình nữa không?
– Thật khó cho tôi để tỏ bày ý kiến trong lúc nầy – Tôi đã hao tổn một sinh – lực – dự – trữ nào đó trong khi tiến về tương lai. Nhiều điều ghi chép còn đọng lại trong sổ tay của tôi, hay những lời ghi được trong băng ghi âm, đòi hòi không chỉ cần được cảm xúc mà thôi, mà cần phải được suy nghĩ lại nữa. Tôi có những dự án theo trình tự có tính cách thuần túy văn học. Trong lãnh vực này, tôi tự biết không đầy đủ, và ngay cả không biết gì cả. Tôi cảm thấy một nhu cầu lớn về đọc. Có thể công việc kế tiếp của tôi sẽ có liên quan đến thế giới hiện thời của chúng ta vươn lên chống lại sự “điếc lác đối với tình cảm con người”.
“Trong mọi trường hợp, tôi không bao giờ đặt dấu chấm hết; vả lại, điều này sẽ thật khó khăn cho tôi sau tác phẩm, đối với giây phút này, là chủ yếu của đời tôi.
Tôi vừa từ Brêt trở về, và một lần nữa tim tôi đã se thắt lại. Tôi đã được biết ở đó bọn phát xít đã bắn giết trẻ em như thế nào, như những con mồi cần săn bắt, trên những cánh đồng. Mệt mỏi vì bắn giết, một trong những con quỷ này đã dùng mô tô chạy khắp cánh đồng để chấm dứt những sinh mệnh nhỏ bé nầy bằng chiếc khóa đại ốc. Người ta đã nghe tiếng sọ vỡ như tiếng vỡ của những trái dưa hấu chín.
“Tôi tin mình đã hiểu nhiều biết bao về cuộc chiến tranh nầy, mà không, tôi còn chưa thẩm thấu được sự đau đớn… tôi không chắc điều gì sẽ cứu rỗi được sự sống trên trái đất. Nhưng hẳn là, chỉ có lẽ phải và thiện chí mà thôi. Nhưng tôi tin tưởng một cách sâu sắc rằng, không có kỷ niệm về quá khứ chân thật và đắng cay, nhân loại sẽ bị đưa đến bờ thảm họa. Trong thời đại chúng ta, ở nơi vạn vật có sự sống, ký ức đồng thể với lương tâm và không có lương tâm thì không thể dựng xây được một cuộc đời tươi đẹp hơn.
Etviga Giuphêrôva
(Vương Kiều dịch theo bản Pháp văn trong Văn học Xô Viết số 325 – 1986)
Đây là câu chuyện kể của người lính quân y:
“… Nhiều lính Đức đã bị bắt làm tù binh trong lúc giao chiến. Có nhiều tên trong bọn chúng đã bị thương. Khí nóng bốc lên hừng hực, chúng tôi vội băng bó vết thương cho chúng, tìm ấm nước cho chúng uống. Hiện tình chúng tôi là đang ở trước cửa ngõ mặt trận, dưới làn súng nổ đạn réo không ngừng. Trong lúc ấy chúng tôi nhận được lệnh phải ngụy trang ẩn núp ngay tức thời.
“Chúng tôi bắt đầu đào hố, toán tù binh Đức lo âu đưa mắt nhìn, chúng tôi giải thích, mong họ tiếp sức đào những cái hầm nầy. Khi chúng hiểu ra sự việc, tù binh Đức hốt hoảng nhìn chúng tôi. chúng khiếp hãi nghĩ rằng: Lúc đào xong những cái hố nầy, chúng tôi sẽ đứng dọc trên miệng hầm và kéo cò bắn bỏ tất cả. Chúng nghĩ, chúng tôi sẽ đối xử theo cách lính Đức đã từng đối xử với những đồng chí của chúng tôi. Cô biết không, chúng xiết bao kinh hoảng khi đào những cái hầm nầy.
“Bọn chúng hoàn toàn ngơ ngác lúc chúng tôi băng bó vết thương, lấy nước cho chúng uống và nói cho chúng biết rằng những hầm hố mà chúng đào đây là để bảo vệ sự sống của chúng”.
Trong một bài báo viết về chiến tranh Ilia Êrengbua đã nói rằng: “Chiến tranh không hận thù là phi luân, đáng hổ thẹn, và không thể biện minh được”. Những chiến sĩ của chúng ta đã đến với lòng căm thù thiêng liêng nầy qua nổi khổ đau, tuy nhiên những câu chuyện giống như chuyện vừa kể trên thật không ít xảy ra. Tất nhiên không thể có lòng khoan dung vô bờ cũng như lòng nhân bản trừu tượng, khi dân tộc đang bị chém giết, đang bị thương và bị sự hành hạ vây quanh.
Đó là điều khác hẳn, điều một người không muốn quên đi mình là con người. Chiến thắng đạo đức của chúng ta trong cuộc chiến kinh hoàng nầy là chiến thắng vĩ đại, cuộc chiến dường như đã giết chết tất cả cảm giác sống, chỉ còn lại lòng hận thù duy nhất đối với bộ binh phục phát xít kia.
Ký ức của những người phụ nữ còn có nhiều tấm gương của lòng vị tha.
Emilia Alêchxêkina Nikôlaieva vào quân đội làm y tá, bị bắt, và trốn thoát được từ một trại tù, rồi tham gia vào đội du kích của Lữ đoàn Vôrôtricôp.
“Khi chúng tôi bắt giữ tù binh – Bà nói – tôi nghĩ rằng chúng đừng hòng xin chút thương hại nào nơi tôi, sau ngày tôi đã sống qua, trải qua những sự hành hạ, chà đạp trong trại tập trung. Một hôm có vài tù binh bị dẫn vào… Người bạn của tôi đã sống qua nhiều trại tập trung của Quốc xã, đã mất đi một cánh tay, thường chia xẻ buồn vui với tôi, chúng tôi nói với nhau: Bây giờ chúng ta đối xử với chúng theo cách chúng đã đối xử với chúng ta. Nhưng khi điều ấy đến, thì nó bị trục xuất ngay, vì rằng dân tộc chúng tôi có thái độ khác hẳn, không thể tàn tệ đánh đập tù binh, hoặc, ngay cả việc tìm cách nhục mạ y nữa, đặc biệt nếu y là người lớn tuổi”.
Vêra Iôxiphôpna Khôrêva, bác sĩ ở bệnh viện Minxcơ là nữ y sĩ mổ xẻ trong thời chiến, hồi tưởng lại:
– Hôm ấy, người chính trị viên gọi tôi đến nói rằng: “Vêra-Iôxiphôpna, đồng chí sắp nhận nhiệm vụ chăm sóc một số thương binh Đức”. Tôi phản đối: “Hai người anh của tôi vừa mới chết, tôi không làm việc ấy”.- “Nhưng bổn phận đồng chí là phải làm, có đúng vậy không?” – “Tôi không thể, chúng đã giết chết anh em tôi, tôi căm thù bọn Đức, tôi thà cắt chúng ra từng mảnh còn hơn phải từ tốn với chúng, xin đồng chí hiểu cho tôi…” – “Không, đây là mệnh lệnh!”.
Cuối cùng tôi phải tiếp xúc với thương binh Đức, phải làm những động tác cần thiết, nhưng tôi đã xử sự với cả tấm lòng.
Êkatêrina Pêtrôpna Xalighina từ thành phố Zolôtônôs, thuộc xứ Cherkassy đã gởi cho tôi một bức thư như sau:
“Tôi là người y tá ở mặt trận, tôi nhớ tên thương binh Đức đầu tiên đến phòng tôi. Chứng hoại thư đang phát triển trong người nó, và một bắp chân của nó phải bị cưa cắt…
Đến chiều tối được lệnh: “Kachia, hãy đến săn sóc tên lính Đức của cô”. Tôi bước đi và nghĩ rằng: “vết thương y đang chảy máu, y đang nằm dài thao thức, nhiệt độ bình thường, y nhìn chăm vào mắt tôi, rồi rút ra một khẩu súng côn, y nói bằng tiếng Đức, nhưng dùng cử chỉ để biểu lộ điều y muốn than oán “Cô ở đây”… y nói “Cô ở đây, tôi đã muốn giết bọn các cô, bây giờ đến phiên các cô hãy giết chúng tôi đi!”.
Gần kết cuộc chiến tranh, chúng tôi có một bệnh viện Đức, ở đó có rất nhiều thương binh Đức nằm điều trị. Tôi sẽ không bao giờ quên toán lính Đức bị thương nhẹ khiêng những tử thi xuống từ căn gác thứ năm, họ nắm chân người chết kéo lôi xuống dưới hầm. Những xác chết được sắp lớp nằm cạnh nhau, tất cả là người Đức với người Đức.
Có ai ghi lại được hình ảnh những lính Đức mà đội cứu thương của chúng tôi khiêng nhặt lên từ chiến trường, rồi được những bác sĩ của chúng tôi chăm sóc trong bệnh viện giữa lúc trận chiến còn tiếp diễn không? Hoặc có ai đã viết về trẻ con Đức được các đồng chí của chúng tôi nuôi dưỡng trong nhà bếp vào năm 1945 không? Trẻ con Đức đã nhớ lại gì? Chúng có nhớ tảng đường mà người lính Xô Viết đã cho chúng ăn, người lính mà nhà cửa anh đã bị đốt cháy đi, con cái anh đã bị giết đi, và vợ của anh đã bị những người cha, người anh của chúng cưỡng hiếp, chúng không muốn nhớ lại hay sao?
Xôphia Ađamôpna Kuntxêvich, nữ y tá, nhớ lại:
Chúng tôi vượt qua biên giới. Quê hương chúng tôi đã được tự do! Tôi không nhận ra những người lính nữa, dường như họ là những người khác. Mọi người đang vui cười – Họ mặc những bộ áo quần thật tươm tất. Hoa đang nở rộ khắp nơi, tôi chưa bao giờ thấy nhân dân sung sướng hơn thế. Tôi nghĩ rằng rồi sẽ không có chút lòng thương nào khi chúng tôi vào nước Đức. Trái tim của tôi tràn đầy hờn oán! Tại sao phải có lòng thương với con cái những kẻ đã giết chết con cái mình chứ? Tại sao tôi để yên căn nhà của những kẻ đã thiêu rụi nhà cửa của tôi chứ? Quả thật tại sao? Chúng tôi muốn trông mặt những người vợ, những người mẹ đã sinh ra đám con cái như vậy, họ sẽ đối diện với chúng tôi như thế nào?
Hình ảnh đầu tiên tôi thấy ở nước Đức là một căn nhà nằm ở bên đường dán yết thị chỉ rằng: “Đây là Đức – Quốc – Xã” và tôi nghĩ: “Tôi và những người đồng chí của mình sẽ hành động ra sao? Chúng tôi nhớ lại mọi sự ấy… Chúng tôi đi đến một thành phố – trẻ con đói rách và khốn khổ lang thang khắp nơi. Tôi từng thề là phải ghét bỏ chúng, vậy mà tôi đã thâu góp từ đồng đội của mình, mọi thức ăn họ có, từng viên đường một, rồi đem cho những trẻ con Đức này. Dĩ nhiên tôi không quên bất cứ điều gì, tôi nhớ lại điều ấy thật sáng suốt, nhưng tôi không thể yên tâm nhìn vào mắt những trẻ thơ đang đói khát này.
Mỗi buổi sáng trẻ con Đức nối đuôi nhau xếp hàng trước nhà bếp chúng tôi để đón nhận thức ăn. Mỗi đứa đều có một cái túi đựng bánh mì quàng trên vai, một hộp xúp đeo lủng lẳng ở thắt lưng, và cái ca để đựng cháo, hoặc đậu chín. Chúng tôi không có lòng hận thù với người dân vô tội, chúng tôi nuôi cho trẻ con ăn, lắm khi vỗ về an ủi chúng…
Tôi xúc động khi nhớ lời “vỗ về” yêu dấu ấy, vì đó là cách nuôi dưỡng tốt lành nhất, nghĩa là cho tình yêu thương, để chúng có sức sống mà biểu lộ lòng thương người.
Tamara Umnyaghina, nữ trung sĩ quân y nói về tháng 5-1945:
“Tôi nhớ lại, chúng tôi đang cầm xem nhiều bức ảnh trong tháng 5-1945. Mọi người sung sướng tiết bao… Ngày 9-5-1945. Tất cả nhân dân đều la vang “CHIẾN THẮNG! CHIẾN THẮNG!”… Chúng tôi chưa tin tai mình nghe là đúng… là chiến tranh thật sự đã chấm dứt rồi ư? và bây giờ chúng tôi sẽ làm gì đây?
Tiếng súng còn nghe vang! Những người có súng nức lòng thi nhau bắn lên trời. “Ngưng bắn”. Sở chỉ huy ra lệnh.
Chúng tôi bỏ lại một số bom đạn, giữ lại mà làm gì chứ? Chúng tôi tự hỏi.
Tôi không cần đời sống xa hoa, phù phiếm. Tôi tình nguyện hiến dâng tất cả mọi sự nhưng hãy để lại thanh bình, thanh bình thực sự – Cô có hiểu tôi không? Chúng tôi đang hành động vì thế giới hòa bình…”
(VƯƠNG KIỀU dịch
theo bản tiếng Anh của Richard Morton trong văn học Xô Viết số 3 -1985)
(SH20/8-86)
ThíchThích
Phần bắt đầu từ đoạn “Đây là câu chuyện kể của người lính quân y:” trở xuống đọc sao thấy nặng mùi tuyên truyền, đề cao tính quảng đại của Hồng Quân LX một cách quá đáng. Nếu ai từng đọc lịch sử Thế Chiến II, lúc quân Nga tiến vào Bá Linh mới thấy sự man rợ của quân đội này. Xin trích lại phần dưới đây bài “Rape during the occupation of Germany” đẻ thấy họ có thực sự thánh thiện như bài viết trên không:
As Allied troops entered and occupied German territory during the later stages of World War II, mass rapes took place both in connection with combat operations and during the subsequent occupation. Most Western scholars agree that the majority of the rapes were committed by Soviet servicemen, but estimates vary widely. Russian historians have criticized the estimates and argue that these crimes were not widespread. The wartime rapes had been surrounded by decades of silence. According to Anthony Beevor, NKVD files have revealed that the Soviet leadership knew what was happening, including about the rape of Russian women liberated from labour camps, but did nothing to stop it, while other sources say that the Soviet leadership took swift action.
Historians have written about sexual violence committed by the armies of the Western Allies and the Red Army as these forces fought their way into the Third Reich and during the period of occupation.[7] On the territory of Nazi Germany, it began on 21 October 1944 when troops of the Red Army crossed the bridge over the Angerapp creek (marking the border) and committed the Memmerdorf Massacre before they were beaten back a few hours later.
The majority of the assaults were committed in the Soviet occupation zone; estimates of the numbers of German women raped by Soviet soldiers have ranged up to 2 million. According to historian William Hitchcock, in many cases women were the victims of repeated rapes, some as many as 60 to 70 times. At least 100,000 women are believed to have been raped in Berlin, based on surging abortion rates in the following months and contemporary hospital reports, with an estimated 10,000 women dying in the aftermath. Female deaths in connection with the rapes in Germany, overall, are estimated at 240,000. Anthony Beevor describes it as the “greatest phenomenon of mass rape in history”, and has concluded that at least 1.4 million women were raped in East Prussia, Pomerania and Silesia alone. According to Natalya Gesse, Russian soldiers raped German females from eight to eighty years old. Russian women were not spared either.
When Yugoslav politician Milovan Djilas complained about rapes in Yugoslavia, Stalin reportedly stated that he should “understand it if a soldier who has crossed thousands of kilometres through blood and fire and death has fun with a woman or takes some trifle. On another occasion, when told that Red Army soldiers sexually maltreated German refugees, he reportedly said: “We lecture our soldiers too much; let them have their initiative.
Historian Norman Naimark writes that after the summer of 1945, Soviet soldiers caught raping civilians were usually punished to some degree, ranging from arrest to execution. However, the rapes continued until the winter of 1947–48, when Soviet occupation authorities finally confined Soviet troops to strictly guarded posts and camps separating them from the residential population in the Soviet zone of Germany…
ThíchThích