//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Khảo Cổ, Phong thủy, Về Huế

Long Mã Phù Đồ * Tác phẩm cuối đời của họa sĩ Tôn Thất Sa

 

 

 

9

Bức bình phong Long Mã Phù Đồ ở Khổng Miếu Hội An

 

Hai từ bình phong nghe quá quen thuộc và cũng thường dùng trong câu chuyện hoặc khi viết lách. Chẳng hạn:

– Thôi, ông đng dùng nàng như cái bình phong che du cái bn mt xu xa ca ông!

“ Núi Ngự được coi là tấm bình phong che chở cho kinh thành Huế “. Nhưng truy nguyên hai chữ bình phong là chuyện không dễ, chưa nói đến chuyện phong thủy, phân loại, giải thích bình phong trong nhà ngoài vườn.

Tìm vào Internet tôi thấy hai bài rất giá trị. Bài thứ nhất:  Bình phong và non bộ trong kiến trúc cung đình Huế của tác giả Thạc sĩ Phan Thanh Hải. Ông giải thích hai từ bình phong như sau:

“ Bình phong xut phát t các yếu t “triu”, “án” trong phong thy, chc năng ch yếu là gia tăng tính bn vng ca cuc đt, ngăn chn khí xu và các yếu t bt li cho gia ch. Non b li là s kết hp gia nước (thy) và đá (thch), chc năng ban đu ch yếu là kết hp vi bình phong đ cn bt ha khí, “t thy, tích phúc” cho gia ch. V sau bình phong, non b mi kiêm thêm chc năng trang trí m thut và dn dn tr thành mt nhân t không th thiếu trong kiến trúc truyn thng”

(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)

 

Còn bài Long mã ở Huế của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn cho biết thêm về những bình phong ở Huế

“ Theo nguyên lý Ngũ hành tương sinh (Th sinh Kim; Kim sinh Thy; Thy sinh Mc; Mc sinh Ha; Ha sinh Th) thì có th trch (đt/nhà) mi có ch nhân (Kim); ch nhân sinh ra con cháu (Thy) và điu khin thê thiếp, nô bc (Mc). Nếu ngôi nhà quay v phương Nam thì hành Ha càng thêm vượng, vì phương Nam thuc hành Ha. Theo nguyên lý Ngũ hành tương khc (Ha khc Kim; Kim khc Mc; Mc khc Th; Th khc Thy; Thy khc Ha), Ha quá vượng s gây tn hi cho gia ch (Kim). Vì thế cn phi có bình phong án ng phía trước đ cn bt Ha khí. Vì lý do này mà hu hết các cung đin, đn th, đình làng, nhà th h tc, nhà ca thường dân Huế đu có bình phong án ng phía trước. Và linh vt được chn la đ trang trí trên bình phong x Huế nhiu nht chính là long mã. Trên các bc bình phong, long mã được th hin theo đin tích “Long mã ph Hà đ”: lưng mang Hà đ dâng cho vua Phc Hi), chân lướt trên sóng nước, đu vươn ti các tng mây. Bình phong long mã ni tiếng nht Huế chính là bc bình phong xây dng năm Thành Thái bát niên (1896) trường Quc Hc Huế. Long mã trên bình phong này là nguyên mu ca hình nh long mã trên logo ca Festival Huế

Nguồn http://www.covathue.com/cac%20bai%20viet/Longma.html

 

Từ nhỏ vào nhà nào có bình phong, tôi có cảm giác rằng họ gia giáo, giàu có. Nhiều lần đi một mình ngang qua miếu cổ, với những cây đa to lớn, cành lá um tùm, rậm rạp , mắt chạm phải con hổ bình phong nhe nanh, giương vuốt cũng thấy hơi rờn rợn. Khung cảnh gợi lên chốn linh thiêng và cổ kính. Ngày nay, đất có giá nên thần thánh cũng phải rút lui nhường chỗ cho những kẻ tham tiền. Vậy mà họ vẫn sang sảng dạy đời : bảo tồn, bảo tàng. Bỏ tàn thì có!

Lớn lên, tuy không hiểu nhiều về nghệ thuật nầy nhưng tôi rất thích thú chiêm ngưởng các loại bình phong đơn sơ nơi thôn dã, hay to lớn, cầu kỳ tại các đền chùa, miếu mạo Ba miền Trung, Nam, Bắc, nhất là tại cố đô Huế , dù chưa phân biệt tinh tường mức độ nghệ thuật.

Tôi chỉ nhớ một lần linh mục Anrê Phạm Năng Tĩnh, một tiến sĩ Lịch sử, một người rất am tường về nghệ thuật Việt Nam, cả Trung, Nam, Bắc, nay đã qua đời,  cho biết:
“ Bc bình phong Long Mã Phù Đ Khng Miếu Hi An đp nht Vit Nam ”
Tôi ghi vào bộ nhớ câu nói này và tìm dịp tiếp cận. Năm 1970, tôi có dịp ghé qua Hội An, lại được trang bị máy ảnh Leica M.3 có ống kính “tê lê 135” ( chụp xa) và phim màu Kodakchrome “ oách nhất” thời bấy giờ. Tôi không bỏ cơ hội ghi hình. Vì phim đắt tiền, phải gởi tận sang Mỹ tráng và làm “xờ lay” ( slide) nên chỉ chụp được mấy tấm thôi.

Không ngờ mấy tấm ảnh ấy và cả mấy trăm slides sau nầy làm tôi “ sút ký”.

Năm chiến tranh Việt – Trung bùng nổ, phong trào chống “mê tín dị đoan” được phát động rầm rộ, cùng với phong trào cải tạo mặt bằng, hợp tác hóa. Nhiều công trình tâm linh của ông bà khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh thành khác bị xóa sổ. Miếu mạo được liệt vào loại mê tín nên giữ lại làm gì khi người ta tiến lên xây dựng xã hội mới, “ quy hoch theo nếp sng văn minh”. Nghe nói Bí thư Quảng Nam- Đà Nẵng Hồ Nghinh lừng danh trong chiến đấu và trong thời bình, ở xã Duy Trinh, cận kề Duy Sơn xã tôi thường trú,  mà mồ mã cha ông cũng phải di dời thì ai mà cản nỗi bánh xe lịch sử được!

Ở Trà Kiệu, cách xa 30 chục cây số mà tin buồn Khổng Miếu bị đập bỏ làm tôi xót xa. Rất lâu sau nầy về đến Hội An mới biết  bình phong và các loại trang trí bị dẹp bỏ mà thôi. Ngôi nhà, cây cầu còn đó nằm trơ vơ như trên một đám đất hoang.

Cái khổ là lịch sử lập lại như Kinh Thánh đã báo trước “ …Có thời đập phá rồi có thời xây lại ” ( Sách Giảng Viên – Qohelet- 3,3 ). Khi Hội An được công nhận là di sản văn hóa thế giới bà con Hội An mới tiếc “ đứt ruột” những di tích ngày xưa. Nghe đâu cũng những vị phụ trách đập phá xưa, nay lại hô hào trùng tu, quả là bi hài kịch.

Không biết việc trùng tu có giống được nguyên bản bao nhiêu phần trăm? Muốn giống hệt phải có tài liệu lưu trữ  mà về phần nầy tôi không chắc có ai bảo tồn. Mà có giống cũng chẳng quý…một mãnh gốm thế kỷ 18 phải giá trị hơn loại cuối thế kỷ 20.

Rồi cũng trùng tu xong…Không ai buồn so sánh cũ mới thế nào.

Riêng tôi, nhớ lại mình có chụp mấy tấm ảnh Khổng Miếu, Chùa  Cầu, Đài kỷ niệm xưa…nay không biết để đâu, còn hay mất qua bao tang thương vật đổi sao dời. Thế là phải chạy đôn chạy đáo lục lọi quá khứ, xem mình để chốn nào. Cuối cùng thì tôi đã moi chúng ra được. Nhưng làm sao mà chuyển từ slide sang ảnh kỷ thuật số đây khi máy xem “ xì lay” không ai còn giữ. Cái máy Voigtlander tự động quý giá, Zettomat II,  tối tân bậc nhất thời đó, lại không chịu hoạt động, vì lâu năm không dùng đến, kể như vô dụng. Tuy nhiên, “cùng tắc biến”, tôi quyết định phá bỏ tất cả các thứ máy móc lỉnh kỉnh, chỉ giữ lại phần các thấu kính. May mắn là bóng đèn chưa cháy. Mày mò “ sáng chế và phát huy sáng kiến” mãi rồi cũng thành công nên hôm nay tôi mới có thể viết bài nầy.

Trở lại Khổng Miếu Hội An để tìm hiểu ai là tác giả bình phong nầy?

Cổ Học Tinh Hoa Văn Tập, số đặc biệt Khánh Thành Khổng Miếu và Đài Kỷ niệm của Tỉnh Hội Việt Nam Cổ học Việt Nam năm 1962 có nhiều thông tin về Khổng Miếu và Bình Phong Long-Mã Phụ Đồ.

Tác giả là “ Lão Ha sĩ Tôn Tht Sa v kiu và các tay th điêu luyn chn Đế kinh thc hin. Tn phí hết 11.000$” . Trong sách đó cũng bàn nhiều về con Long Mã, Đồ Thư, Ngư Tiều Canh Mục.

 

10

 

Long Mã mang ý Long hóa Mã. Tác giả cho biết lẻ ra phải có bốn câu thơ sau cho kẻ “ tò mò” hiểu ý nghĩa.

Trước gió pht phơ Long hóa Mã.

Trên mây lp loáng Mã thành Long.

Đ thơ ch nng nn luân lý

Cnh vt phô bày cuc biến thông.

 

Vậy đây không phải là một con ngựa nòi, một chiến mã, dù to đẹp mà là con Long Mã chở Đồ thư tức Hà Đồ, Lạc Thư tạo nên nền  văn tự, văn học, văn hóa, văn minh, triết học Á Đông. Chồng sách trên lưng tượng trưng cho Đồ Thư, Long Mã chở nền luân lý cương thường. Con Long Mã Festival Huế thì thấy chạy khơi khơi không mang thứ gì cả?!

 

Bốn nhân vật khác được trang trí là Tiều , Mục phía trước và  Canh, Ngư phía sau. Ngư, Tiều, Canh, Mục muốn nói lên xuất, xử đúng tiết, hợp thời của kẻ sĩ; gương hiếu học của người xưa; sự kiên tâm bền chí của người quân tử.

Ngư ông chính là Khương Tử Nha , tức Lã Vọng…chờ minh chúa.

Tiều phu là Chu Mãi Thần chưa gặp thời đi kiếm củi nhưng luôn mang sách theo…dùi mài kinh sử. Ông vừa gánh củi vừa đi, vừa đọc khiến thiên hạ liệt vào hạng điên khùng. Nhờ đó mà:

 

Vai gánh ci, hc thi luôn ming

Chu Mãi Thn nên tiếng Danh Nho.

 

Canh ( nông ?),  người đi cày là Y Doãn, khai quốc công thần đời nhà Thương, giúp vua  Thương Thành Thang diệt  chế độ hà khắc nhà Hạ, trở thành minh quân nhà Thương. Hai từ cách mạng, kách mệnh phát xuất từ thời kỳ nầy “Thang-Võ cách mệnh”, ý nói lấy vương đạo mà thay cho bá đạo.

Mục đồng, nhắc lại anh chăn trâu Lý Mật, đời Đường. Chăn trâu thuê mà mà sách treo trên sừng để học.

Nhắc nhở mọi người gương hiếu học .

 

Lý Sinh chng qun công phu.

Chăn trâu treo sách mt pho trên sng.

 

Tại Trung Quốc câu “ Ngưu giác quải thư ”, sừng trâu treo sách là thành ngữ thông dụng.

Trên bình phong còn có hai vật tượng trưng khác : một bên bút lông vươn cao, một bên chuôi kiếm cắm xuống. Kiếm bút là đồ dùng học trò thời xưa, tượng trưng văn võ toàn tài.

Hóa ra người xưa làm gì cũng có ý có tứ, nhằm giáo hóa con người. Khốn nổi con cháu họ quá “văn minh” nên hiểu không ra, đập quách cho xong.

Nói đến “ Lão Họa sĩ Tôn Thất Sa” là phải ” hạ mã”… xuống…Honda (ngựa ngày nay), ngã mũ chào bái phục. Khi còn trẻ mà thầy Tôn Thất Sa đã khiến thiên hạ Đông Tây kính trọng với bao công trình sừng sửng với thời gian như Đài Chiến sĩ Trận Vong Huế. Theo thông tin trên Internet thì “Đài được khi công xây dng ngày 12/5/1920, hoàn thành ngày 18/9/1920. Đ án thiết kế đài tưởng nim này ca ông Tôn Tht Sa, giáo viên hi ha trường Bá Công Huế. Đài được xây dng dưới hình thc mt chiếc bình phong truyn thng có mái che gi ngói. Thân và b đài được trang trí bng các mô típ rng, lân, ch th cách điu, mai, lan, cúc, trúc hết sc linh hot, và đt hiu qu cao. Phía trước đài, xây hai tr biu cao bng gch khiến đài càng có v uy nghiêm.” Họa sĩ Tôn Thất Sa còn nhiều công trình khác như những bức tranh màu nước và đồ họa trang trí cho tập san Bulletin des Amis du Vieux Huế ( Đô Thành Hiếu Cổ).

 

12

Đài Chiến Sĩ Trận Vong Huế

 

Chị Tôn nữ Thị Yến, cô gái rượu của bố Thất Sa, hiện sống tại Kim Long cho biết : “Ba tôi nổi tiếng vẽ rồng”. Rồng Tôn Thất Sa chắc phải đứng riêng một cỏi trong số rồng trang trí Nhà Nguyễn tại Huế.

 

13

Đài CÁC THÁNH TỬ ĐẠO nhà thờ Kim Long, Huế. Ảnh Trường Thăng

 

Mười năm trước đây, lang thang một mình trên sân nhà thờ Kim Long Huế, tôi rất ngạc nhiên khi thấy một bức bình phong, một bình phong công giáo! Ai là tác giả, phong cách nầy hơi giống bức bình phong Khổng Miếu Hội An. Chắc là của Họa sĩ Tôn Thất Sa thôi. Tôi đoán không sai, Kim Long là xứ đạo của họa sĩ và nhờ đó tôi tìm ra ngôi nhà và những người thân. Bức bình phong đó mang dáng dấp cổ truyền nhưng họa sĩ đã Ki tô hóa nhiều chi tiết trang trí chẳng hạn rồng chầu Thánh Giá. Thánh giá lại nằm trên chữ thọ. Cùng với ông bạn chí thân J.M Nguyễn Văn Thích, hai người để lại những kỷ niệm quý giá cho giáo xứ nầy.

Tại trụ cổng nhà thờ có câu đối của cha Sản Đình.

 

Thuyn ngược, nước xuôi , đi khó x.

Tri nhào, đt ln, đo không lay.

 

Tiếc làm sao cho công trình cuối đời của họa  sĩ Tôn Thất Sa tại Khổng Miếu Hội An đã không được hậu thế trân trọng, giữ gìn.

Cho đến nay chắc nhiều hình ảnh còn lưu giữ đâu đó về tấm bình phong nầy. Riêng tôi từ năm năm nay, được về sống ở Hội An dù cố công tìm tòi mà chưa gặp những hình ảnh bình phong năm xưa. Gia đình anh Vĩnh Tân đã gìn giữ bao tấm ảnh quý cho thành phố mà cũng không có ảnh màu.

Nhiều bức bình phong tại Huế và vùng lân cận ngày nay hao hao giống bức nầy, phải chăng những người chế tác là con cháu các “ tay thợ điêu luyện Đế đô năm xưa”, những người đã thực hiện và dựa vào tài liệu của cố họa sĩ mà truyền nghề cho cháu con?

Trong khi chờ đợi, xin bà con tạm coi mấy tấm ảnh mà tôi còn lưu giữ để xem qua cho biết và so sánh với tác phẩm hiện nay tại Khổng Miếu Hội An.

 

14

 

Vì kỹ thuật quá “ thô sơ ” nên hình ảnh không được sắc nét và hơi méo mó.  Bà con thông cảm. Tuy nhiên : Có còn hơn không, có còn hơn không!

 

15

16

Chi tiết Long Mã Phù Đồ của họa sĩ Tôn Thất Sa.

 

Linh Mục An Tôn Nguyễn Trường Thăng

(Nguồn : bachhovietnam.blogspot.com)

 

 

 

Advertisement

Thảo luận

Không có bình luận

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

%d người thích bài này: