Đoàn Kế Tường
Tôi đã chờ trong ấm ức, từng bản tin chiến sự, từng chuyến theo chân hành quân các đơn vị Nhảy Dù, TQLC tôi hy vọng được về gần gũi quê hương mà tôi đã bỏ đi. Sau hơn hai tháng trời chui rúc trong các khu tạm cư khốn khổ. Ngày 29-6-72 hàng trăm ngàn trái tim người dân Quảng Trị đã cùng hòa điệu nhịp nhàng trong niềm ước mơ hiện hình được trở về quê hương theo chân đoàn quân áo hoa anh dũng. Buổi sáng niềm vui phả ngập trong hồn. Tuyến Mỹ Chánh không còn là lằn mức ranh giới, từng đoàn con yêu của tổ quốc súng đạn lên vai qua sông tiến về phương Bắc ở đó bầu trời dang rộng đôi tay chào đón. Tôi theo họ. Phải về nhìn lại đoạn đường như một tì vết ô nhục, bạo tàn mà ngày bỏ đi biết bao nhiêu đồng bào trong đó có cả bạn bè và tình nhân mình đã nằm xuống ngủ yên.
Đoạn đường với dẫy đầy bất trắc, đạn trọng pháo của Bắc quân rải đều đặn hai bên, tiếng đạn đã trở thành quen thuộc trong trí nhớ hãi hùng. Cầu Bến Đá gãy gục, vài ba quả mìn chống chiến xa nằm chênh hênh bên bờ cỏ ngụy trạng đã khô. Vài đám dân gầy gò hốc hác bồng bế nhau chạy về nhìn thấy người chiến binh mà trào nước mắt. Phía dưới chiếc cầu nổi vừa được bắc xong, người lính công binh ngồi dựa lưng vào vách tường sập đổ tìm giấc ngủ. Rồi cũng qua cầu đi lần về thành phố đổ nát phía trước, con dốc Bến Đá che khuất đoạn đường vừa qua còn lại đó một địa ngục khủng khiếp của cả một đoàn xe cháy nám nối đuôi chồng chất gần năm cây số. Bắt đầu bằng những chiếc xe gắn máy đủ loại, đủ kiểu nằm ngổn ngang. Bên những xác người đã khô khẳng khiu những đốt xương trong áo quần ám kín.
Tôi đã bật khóc thành tiếng, tiếng khóc uất nghẹn căm hờn không thể thoát ra cổ họng. Ngày 1-5-72 một trong những chiếc xe khốn nạn đã đưa tôi đến đây với hàng chục ngàn đồng bào khác đã nhận lãnh những đầu đạn của Bắc quân bắn phủ đầu. Tôi đã bỏ chạy trên xác anh em bà con mình mà không dám ngoảnh mặt nhìn lại. Bây giờ trở về đoạn đường máu thấm mạch đất cố tình tìm lại trên những đống xương nhầy nhụa trắng hếu này một khuôn mặt quen thuộc cũng là một điều khó khăn. Một mái tóc nằm bên một cái sọ và một chiếc áo dài màu tím phủ nắm xương tàn. Từ một cánh cửa gãy lìa của một chiếc xe cứu thương vài cánh tay đưa ra tội nghiệp. Trên một chiếc băng ca người lính xấu số đã thật sự chết hai lần nằm với nắng mưa suốt hai tháng trời. Tôi lay mình trong đoàn xe ngộp mùi tử khí sình thúi như một chứng nhân cho một cuộc thảm sát vĩ đại của người Việt cho người Việt. Một bà mẹ chết gục trên thành xe hai tay còn ôm chặt xác con. Trên một chiếc xe khác ngổn ngang một đống xương gần hai chục người đã cùng chết một lần. Tôi muốn ngộp đi vì không khí cô đọng mùi tử thi dày đặc, quay mặt chạy xuống bãi cát bên vệ đường, bãi cát Hải Lăng là một rừng xác người khô héo bên những đồ đạc họ đã mang theo trên bước đường chạy loạn. Rải rác đó đầy xác lính Bắc quân hai tay ghì chặt bá súng AK cũng xương trắng, đầu lâu cạnh những nạn nhân của họ.
Ngày mai, những người dân Quảng Trị khi trở về ngang đây tìm lại một quê hương đã điêu tàn chắc chắn họ không tránh khỏi ngậm ngùi bởi một phần đời của mình đã để lại đó. Một đoạn đường ô nhục nhất trong lịch sử của dân tộc hiếu hòa. Có lời lẽ nào có thể bào chữa nổi những hành động bạo tàn của Bắc quân với vũ khi tối tân trên tay họ nhắm vào đám dân lành vô tội. Có bao nhiêu người đã nằm xuống ở đó, chắc chắn không dưới vài ngàn. Tướng Giáp và những người chủ trương cuộc chiến tranh nầy nghĩ gì về cuộc thảm sát đồng bào Quảng Trị do quân đội của họ gây nên. Những hình ảnh về đoạn đường máu này có phải là những chiến thắng thiết thực nhất của những người cộng sản không ?
Đoạn đường Mỹ Chánh — Quảng Trị với hàng ngàn oan hồn rên siết chắc chắn sẽ là niềm đau vĩ đại cho cả dân tộc hai miền Nam Bắc. Đành rằng mặt thật của bất cứ một cuộc chiến tranh nào là tàn phá nhưng không có nghĩa phải đem sự tàn phá của bom đạn vô tri được xử dụng bởi những bàn tay thô bạo đổ lên đầu đám người khốn khổ, hiền hòa đang cố chạy thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của chiến tranh ngoại trừ một cuộc chiến diệt chủng. Tôi nghĩ không thể nào là một cuộc xung đột tình cờ được, bởi lẽ ngay khi tiếng súng đầu tiên thoát nòng từ bàn tay của một tên lính Bắc quân nào đó bắn thẳng vào đoàn xe này đã có sự hiện diện của tôi tại chỗ. Không một người dân nào trên xe có lấy một tấc sắt để kháng cự và họ đã chạy bừa vào bãi cát mênh mông như đàn ong vỡ tổ. Đạn đại pháo và bắn thẳng của quân bộ chiến miền Bắc thi nhau đốn ngã rừng người. Họ phải giữ dân ở lại dù chỉ là cái xác không hồn. Một cuộc tàn sát có tính toán và được ra lệnh hẳn hoi đã diễn ra thật man rợ mà sau hai tháng những ai may mắn như tôi được nhìn lại không khỏi phải úp mặt trong lòng bàn tay.
Mãi mãi đoạn đường Mỹ Chánh — Quảng Trị đã trở thành một tì vết tủi nhục cho dân tộc không có gì xóa tẩy được. Liệu nấm mồ tập thể to lớn đó với khung cảnh bi thảm này có đủ để thức tỉnh những kẻ đang chơi trò chém giết để thỏa mãn quyền lợi và tham vọng mà hàn gắn được niềm thù hận anh em suốt mấy chục năm dài.
Tâm tư người dân Quảng Trị
Bây giờ thì niềm ước mơ được trở về mái nhà xưa ở một quê hương điêu tàn sau hai tháng chui rúc trong các khu tạm cư của người dân Quảng Trị đã đến độ chín mùi.
Làm sao mà ngoảnh mặt cho đành với nơi chôn nhau cắt rún có những con đường chạy quanh bờ sông đổ dài ra biển. Khi bỏ xứ mà đi với nỗi buồn đầy ắp trong hồn rưng rưng dòng lệ, tài sản một gánh lên vai kỷ niệm nào hơn nấm mồ tổ tiên, cha mẹ. Niềm luyến lưu níu chặt đôi chân dù ngoài kia súng đạn Bắc quân đang xích lại gần vớ ihọ. Rồi cũng phải ra đi không một dự tính tương lai. May mắn thì có đựợc một chỗ ngồi trên đoàn xe quân đội đang chực chờ đầu Quốc lộ 1. Rủi ro thì dắt dìu bống bế nhau lang thang trên con đường thiên lý tiến về Nam, kẻ chết thì nằm yên lại đó với thành phố buồn thiu làm mồi cho lũ chó hoang chạy rong khắp xóm. Người dân Quảng trị đã thực sự cô đơn từ giờ phút đó. Nỗi kinh hoàng hiện rõ trên hàng ngàn nét mặt từ trẻ thơ cho đến cụ già. Mùa hạ đốt lửa trên đầu gió mùa đùn cát xôn xao trên lớp da mặt họ lầm lũi đi trong tủi nhục và khốn khổ. Ngày mai rồi, sẽ ra sao ? Niềm lo âu cơm áo đè nặng tâm hồn họ cũng như nỗi thiết tha vởi quê hương sắp mất. Rồi bom đạn Bắc quân vùi dập trên đầu họ, vài người thân ngã xuống dù chết dù thương tích hoặc kiệt sức cũng phải đành đoạn bỏ đi. Họ tan loãng trong bãi cát mênh mông, bãi cát như một địa ngục hãi hùng với những tiếng khóc la thảm thiết. Còn hình ảnh nào diễn tả tình mẫu tử cảm động hơn một bà mẹ ngã gục với mảnh đạn ngay tim còn thì thào vỗ về đứa con chưa đầy hai tuổi đang dẫy dua trên ngực mẹ vì dòng sửa ngấm máu mằn mặn, kẻ sống sót bương bả qua những đồi cát trắng phau tìm về đồng lúa vàng đang độ chín mùi lần mò đến con sông Mỹ Chánh. Sinh lộ mở ra ở đó và họ chỉ còn lại hai bàn tay trắng với một tâm tình rách nát. Sau cùng rồi họ cũng đến được thành phố bên kia rặng núi Hải Vân. Người đến trước còn có được một chỗ nằm trong khu tạm cư những trường học, công sở, kẻ đến sau đành chui rúc ở các vỉa hè sống đời sống du mục. Cơm áo bây giờ mới là một vấn đề nan giải đối với họ, kẻ phải lê lết ăn xin, nhiều cô gái trong trắng hiền lành một sớm một chiều bỏ quên guốc gỗ sân trường để bán xác nuôi thân. Niềm tủi nhục lớn dần trong tâm hồn họ khi lặng nhìn người thành phố vẫn phè phởn ăn chơi vung tiền qua khung cửa những trà đình tửu điếm. Tình đồng bào chỉ được thể hiện ở vài ngày đầu với những hô hào, khẩu hiệu rồi lắng xuống theo nhịp độ vồn vã của một vùng đất mất gốc.
Tôi đã đến đó với đồng bào tôi bằng một tâm trạng nhọc nhằn ở những chung cư chật chội, hôi hám, phẩm vật cứu trợ của chính phủ tuy có nhưng làm sao đủ để đắp đỗi qua ngày dù chỉ là rau cháo. Từ đó họ nhìn về quê hương bằng những nhớ nhung xao động, dù khó nhọc nhưng đã trở thành gắn bó đậm đà trên luống rau, luống cải. Tôi đã phải nhọc nhằn lắm nhưng vẫn không thể nào tìm được câu trả lời xác thực nào hơn bằng sự im lặng khi nghe họ hỏi :
– Răng chừ thì miền (mình) có thể về lại Quảng Trị được en (anh) ?
– Liệu Quảng Trị có mất luôn không en ?
Làm sao tôi có thể giải thích được cho họ, ừ chính mình cũng còn không hiểu được nữa. Cuộc chiến tranh ở đất nước này đã trở thành kỳ quặc với những bùa phép, toan tính của ngoại bang. Người dân Quảng Trị họ cũng đủ biết rằng mai có về lại mái nhà thân yêu của họ được chăng nữa cũng chỉ còn những đổ vỡ hoang tàn với hai bàn tay trắng. Nhưng bản chất cần cù chịu đựng họ vẫn có thể bắt đầu xây dựng lại bằng chính sức người tiềm tàng trong tâm hồn họ. Họ sẽ trồng rau trên cát, phá núi làm đồng và ươm mầu cho những tương lai chất đầy hy vọng như ngày xưa tổ tiên họ đã hiên ngang khai phá những địa danh Cam Lộ, Ba Lòng thâm u chướng khí khô cằn sỏi đá trở thành vùng đất màu mỡ với đồn điền chim bay thẳng cánh. Tôi tin tưởng rằng người dân Quảng Trị là những người hiền hòa nhưng có sức chịu đựng gian khổ dai dẳng nhất nhân loại. Nếu không đủ sức chịu đựng làm sao họ có thể sống từ đời này qua đời nọ ở một quê hương dẫy đầy thiên tai và chiến tranh tàn phá. Tôi đã gặp nhiều cụ già tuổi trời đã xé tâm sự như một điều hối hận khi đã bỏ Quảng Trị mà đi. Các cụ hối tiếc đã không ở lại để được chết trên quê cha đất tổ cho tròn đạo làm người. Quan niệm của các cụ tuy lỗi thời nhưng nói lên được cái tâm tình của người dân tha thiết với quê hương đã thành thiêng liêng cao quý. Họ chờ đợi không nản và mỏi mòn cho một lần về dù lúc ra đi thật vội vã và nhất quyết. Cũng lang thang bằng đôi chân ốm yếu nhưng rắn chắc mỗi người đã lần mò ra tận Mỹ Chánh, Bến Đá nghe đạn reo trên đầu để chỉ được nhìn những làng mạc, xóm thôn mờ mờ sau khói lửa và lủy tre xanh. Người lính ôm súng nằm tuyến đầu nhìn thấy cảnh đó như một réo gọi thúc đẩy phải tiến lên đánh bật kẻ thù để chiếm lại vùng đất tạm bỏ. Không hô hào, nhân danh và trục lợi nhưng tôi đã thấy những người dân Quảng Trị quần rách áo ôm, trên lay cầm những món quà nghèo nàn tìm đến trao tận tay những chiến binh Dù, TQLC bằng trọn vẹn chân tình. Món quà nhỏ họ traọ cho người lính nhưng không khác gì họ đã gởi trọn tâm hồn cho quê hương đang lọt vào lằn mức bên kia và người lính khi đón nhận bằng tất cả cảm xúc khác nào đang đón nhận một lời ủy thác cái nhiệm vụ thiêng liêng phải dành lại cho bằng được mảnh vườn của người dân dù trên đó chỉ còn tro than.
Người linh chiếm lại từng gò mả, từng chặng đường là có bóng dáng người dân theo sau hỏi han, chia sớt…
Tôi cũng đã theo chân đoàn quân nhảy xuống những làng mạc tiêu điều sau hai tháng dưới sự kiềm tỏa của Bắc quân. Từ các hầm hố ven làng người dân đã nhảy lên ôm chầm bờ vai người lính khóc nức nở như vừa tình cờ bắt gặp hạnh phúc. Họ đã tâm sự không nỡ bỏ làng mà đi vì còn lại những bàn thờ tổ tiên, những mồ mả ông cha không thể để hương tàn bàn lạnh. Nỗi kinh hoàng còn in rõ trên từng khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn, người lính TQLC chia sớt cho người dân nuốt miếng cơm sấy trong nỗi nghẹn ngào xúc động. Họ không ngớt cảm ơn ông bà, thần thánh đã cho họ có ngày hôm nay còn được nhìn thấy quê hương thực sự được giải phóng bởi những người con yêu. Tôi đã chứng kiến tận mắt một người lính TĐ1 TQLC cởi bớt chiếc áo lót trên mình để tặng cho một người dân ở Gia Đẳng và người dân nhận áo đã mân mê đôi tay khô kia của mình lên bàn tay người lính chai nám như tình nhân. Họ nhắc đến hai tiếng cộng quân bằng giọng điệu kinh tởm, hãi hùng. Hơn bao giờ hết lúc này những người lính Dù, TQLC đã trở thành một cái gì quí mến tràn trề yêu thương trong tâm hồn đồng bào Quảng Trị. Một vài bà mẹ ở Mai Đằng Thượng Xá đã nói với giọng nước mắt.
– Mấy en bộ đội ơi! cả làng ni chờ đợi các en mấy tháng trời rồi, ngày mô cũng ngồi trong hầm dòm ra mà cũng không thấy dạng mấy en mô bết. Toàn là tụi giải phóng khôn ni. Mần răng mà mấy en bỏ dân lâu rứa, mấy en mà tới trễ vài ngày nữa e dân chết hết ni.
Rồi họ chạy ra ngoài vườn in đầy những hố bom bới những gốc sắn tàu đem vô nấu tặng người lính. Một Sĩ Quan TQLC đã nói với tôi một câu thật đầy ý nghĩa :
– Trong suốt cuộc đời lính của tôi, bây giờ tôi mới thấy sự chiến đấu của mình được đền bù xứng đáng hơn bất cứ một sự thăng thưởng và huy chương nào hết.
Người dân Quảng Trị đã thực sự un đúc thêm ý chí chiến đấu cho người lính phong trần. Chính người lính cũng phải thú nhận rằng những chiến thắng ở mặt trận này mà họ tạo được phần lớn nhờ ở tâm tình của đồng bào cho họ. Quảng Trị một quê hương thật nghèo nàn khốn khó nhưng người dân ở đây mới thực sự là một thành trì chống cộng kiên cố nhất nhờ ý thức thâu lượm được ở kinh nghiệm chung đụng với cả hai bên. Cộng thêm đó là niềm thiết tha với xử sở thôi thúc họ trong từng hơi thở, trong từng nhịp đập của trái tim.
Bây giờ thì người dân Qaủng Trị đang chực chờ trở lại thành phố làng mạc họ biết chắc rằng đã điêu tàn đổ vỡ. Cho dù có một nơi khác bình an và sung túc hơn chắc chắn rằng họ cũng không thể nào từ bỏ quê hương của mình với thật nhiều kỹ niệm. Họ phải trở về để dựng xây lại trên những đống gạch vụn, phải nhặt lại nắm xương tàn cửa người thân đã nằm xuống vì bom đạn của Bắc quân; người sống không thể mất quê hương thì người chết cũng cần phải có quê hương để giữ gìn đời đời. Họ đã có sẵn sự chịu đựng vô bờ và niềm tin được thắp sáng lên từ nỗi nhọc nhằn để khai sơn, phá thạch thì sá gì một lần làm lại cho xứ sở một ngày mai huy hoàng và tươi sáng.
(Trích đoạn từ “Những ngày dài trên quê hương,” Văn Nghệ Dân Tộc xuất bản 1972.)
(Nguồn : vietmessenger.com)
Bài liên quan : Ký sự ‘đi nhặt xác đồng bào Quảng Trị trên đại lộ kinh hoàng’ * Trùng Dương
Thảo luận
Không có bình luận