Đêm nay trời tối đen và yên ắng. Vài ngọn đèn hắt thứ ánh sáng màu như màu đèn hồ cá lên lá của những bụi cây trồng trong chậu, và thoang thoảng trong không gian mùi hoa sứ. Một ít người Âu và người Mỹ đang thơ thẩn dạo bước, họ từ một coctail bar bên trong đi ra, đồ uống cầm trên tay. Họ là nhân viên các tòa đại sứ, vợ các nhà ngoại giao, khách trú của khách sạn, sĩ quan quân đội Mỹ, các đặc phái viên báo chí. Đêm tối và không gian khiến chúng tôi nói chuyện nhỏ bớt. Sài Gòn trông thật phẳng, với chiều cao mười tầng lầu, Caravelle trở thành tòa nhà cao nhất. Từ đây, bạn có thể thấy bao quát phần lớn thành phố. Một phía là những nhà chung cư xi măng bẩn thỉu, xây thành từng khối, với vô số ban công, đặc trưng của Đông Nam Á hiện đại . Một phía khác là con đường Tự Do kẹt xe triền miên, mà những tòa nhà công sở kiến trúc thế kỷ 19, trang trí lộng lẫy, luôn có vẻ đáng thương đối với tôi. Tháp đồng hồ trắng của Tòa Thị Sảnh nên được bao quanh bởi cảnh sắc của vài tỉnh thành nào đó của Pháp, theo tôi nghĩ, chứ đâu có phải chịu cảnh tứ bề vây bọc bởi cái nóng gay gắt của Á Châu.
Chúng tôi tà tà đi bọc sang phía nhìn xuống con sông, và đứng thành hàng cạnh tường góc lan can. Từ đây nhìn về hướng đông nam, bạn có thể nhìn thấy những chớp lóe từng chặp trong đêm tối. Đó là tác xạ của pháo binh Nam Việt ở Đặc Khu Rừng Sát. Đây là khu vực đầm, rừng đước, chỗ cửa sông Sài Gòn, nơi Chính Phủ Nam Việt đặt nhiều tiền đồn. VC cũng có những căn cứ ở đây, họ tìm cách đánh đắm thuyền bè đi qua thủy đạo này. Giờ đây có lẽ họ đang tấn công một đồn nào đó của lính miền Nam.
“Kìa, Mike.” Giọng của Volkov, âm độ vừa đủ nghe như mọi người. “Cuộc chiến của bạn đó.”
“Gần đến thế sao,” Langford buột miệng.
“Gần như vậy đó. Và thường khi còn gần hơn nữa.”
Đột nhiên phía trên chân trời của hướng đông nam, những đóm hỏa châu bừng cháy, chiếu sáng cảnh sắc bên dưới như ban ngày. Chúng được thả từ mấy chiếc DC-3 cũ để rọi sáng vị trí của cộng quân. Từ hư vô, những cánh đồng, những hàng cây chợt bừng lên trong tầm mắt, trông như những tấm thảm màu nâu và ô-liu, bọc trong một khung viền màu đen. Ở tầng thượng lúc này đủ thứ tiếng xì xào – có người biểu lộ sự thích thú như trẻ con kêu lên khi xem pháo hoa. Một trong số họ rõ ràng có dẫn theo một phụ nữ Mỹ trẻ tuổi, nàng buột miệng, “Hey, wow, đẹp dữ chưa?”
Jim Feng lằm bằm trong miệng, “Đẹp với vài người thôi đó cô, không đẹp gì đối với những người khác đâu.”
Tất cả chúng tôi giống như đang đứng cạnh lan can trên một chiếc tàu. Chúng tôi chỉ biết nhìn mặt nhau, và bây giờ thì đều im lặng, mắt nhìn sâu vào trong đêm tối. Rồi có tiếng của Mike, “Tôi tưởng người Mỹ đã làm thay đổi tình hình nội trong năm. Như thế này thì chưa được.”
“Cho người ta thời gian với chứ,” Volkov nói. “Quân lính họ nay mới thực sự kéo sang.”
Giọng Jim Feng từ trong bóng đêm vọng ra. “Đúng như thế, Bá Tước. Nhưng ở đây có vài người cho rằng cuộc chiến đã thất bại rồi đấy.”
“Chuyện tào lao,” Volkov nói. “Chuyện nhảm của bọn tả phái James à. Hãy chờ xem chuyện gì xảy ra một khi TQLC Mỹ đụng tay vào.”
“Có lẽ vậy,” Jim nói. “Nhưng lính Mỹ nói đúng, rằng ban đêm thuộc về phe Charlie (tiếng lóng chỉ VC).” Gã quay sang phía Mike, đưa tay chỉ và nói. “Ngoài kia, ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, Victor Charles (VC) làm chủ vào ban đêm. Bạn muốn lái xe Jeep ra khỏi thành phố bạn phải đi lúc ban ngày, ngay sĩ quan Sài Gòn khi di chuyển phải có đoàn xe có võ trang hộ tống. Đôi khi chúng tôi tự hỏi vấn đề có lẽ chỉ còn là thời gian trước khi thành phố này trở thành ốc đảo giữa bể khơi.”
“Feng, đêm nay bạn hết sức là tiêu cực đấy nhé, bạn chỉ có làm cho Mike thêm xuống tinh thần mà thôi,” Volkov nói. “Cuối cùng sức mạnh của không lực Mỹ sẽ mang lại chiến thắng. Làm sao lại không thể như thế được.”
“Mùa mưa đang tới,” Jim nói. “Sẽ rất khó khăn cho phi cơ. Không bao lâu VC sẽ đánh lớn trở lại.”
Nhưng Volkov đang bận tỉ tê với Langford, “Đây là cuộc chiến bằng trực thăng cưng à. Theo ý tớ chiến thắng sẽ đạt được nhờ mấy chiếc gunship nhỏ đáng yêu ấy.” Gã quay lại về phía tất cả chúng tôi, hơi đung đưa người một tí, giọng gã nay cà lăm còn hơn trước nữa.
“Những cổ máy diệu kỳ,” gã nói. “Công nhận chúng là công cụ hủy diệt, nghĩ về mặt đạo đức thì không chấp nhận được chúng, nhưng biết sao không, tớ lại ưa thích chúng mới lạ chứ, những chiếc trực thăng vận tải Chinooks, và những chiếc Huey nho nhỏ. Chúng có vẻ đẹp. Theo tớ từ này dùng để chỉ về chúng. Phải, Huey là loại trực thăng đẹp. Gunship so với nó chẳng còn ra gì. Rồi bồ cũng sẽ nghĩ như thế, Mike ạ, khi nào bồ được cỡi trên một chiếc Huey đi vào vùng chiến địa. Nhưng dĩ nhiên bồ chớ có trở thành kẻ ghiền chiến tranh như tụi này.”
“Nên nói cho mình bạn nghe thôi, Bá Tước,” Jim nói, tuy vậy giọng gã nghe có vẻ dịu dàng và khoan dung.
Volkov nhe răng cười. “Bạn không là một tên ghiền chiến tranh hả James? Vậy sao chúng lại gọi bạn là Crazy Jim Feng? Há?”
Jim cười không đáp; rồi cả hai cùng nhìn sang phía Langford.
Bây giờ thì họ mang cùng một ý tưởng. Cái mà người ta có trong đầu khi nhìn kẻ nào đó đi thơ thẩn vào một khu vực nơi sẽ định hình cuộc sống của kẻ ấy, mà hậu quả những kẻ khác không thể nào tiên liệu được.
“Dĩ nhiên chúng ta không phải là những kẻ say mê chiến tranh máu lửa,” Jim nói. “Tớ biết tớ không phải loại đó. Tớ chỉ muốn quây tường thuật những câu chuyện về các trận đánh mà thôi.”
Volkov cười lớn. “Đúng như vậy,” gã nói. “Chẳng bận tâm ai thua ai thắng; đó không phải là chuyện của chúng ta. James vừa mới tóm lược như vậy rồi. We like to shoot the bang-bangs, chúng ta chỉ biết quây tường thuật những câu chuyện về các trận đánh mà thôi.”
Thảo luận
Không có bình luận