Hoàng Lộc
Bài ca Shina No Yoru do ai hát trước tiên thì khó mà biết, tuy nhiên theo một số thông tin, Shina No Yoru được nữ ca sĩ xứ anh đào Watanabe Hamako (1910-1999) trình bày lần đầu vào năm 1938, và được sử dụng trong thời gian Nhật chiếm đóng Trung Hoa như là chủ đề chính cho cuốn phim tuyên truyền mang cùng tên Shina No Yoru.
Về sau một phiên bản khác do nữ ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Nhật Yoshiko Yamaguchi ca lại. Cô còn được biết đến với nghệ danh khác như Li Xianglan và Shirley Yamaguchi. Cô cũng là người thủ vai chính trong phim Shina No Yoru.
Vào cuối Thế Chiến II, cô bị Quốc Dân Đảng bắt ở Thượng Hải về tội phản quốc vì từng hợp tác với quân chiếm đóng Nhật trong thời chiến. Ngày hành quyết tại một trường đua ở Thượng Hải được dự định vào ngày 8 Mười Hai, 1945. Tuy nhiên trước khi đến ngày xử tử, cha mẹ cô (bấy giờ đang bị bắt ở Bắc Kinh) đã kịp tìm cách trưng bản sao giấy khai sinh của cô, chứng minh rằng cô hoàn toàn không mang quốc tịch Trung Hoa. Tài liệu nhờ cô bạn người Nga tên Lyuba Monosova Gurinets chuyển lậu vào Thượng Hải bằng cách giấu vào đầu một con búp bê geisha Nhật. Nhờ vậy mà Yamaguchi được trắng án, tất cả các cáo trạng, kể cả án tử hình.
Mặc dù được tha bổng, các thẩm phán Trung Hoa vẫn khuyến cáo cô nên rời khỏi nước ngay lập tức, ngược lại cô có nguy cơ bị treo cổ; và vì thế mà trong năm 1946 cô tái định cư ở Nhật, và khởi đầu một nghề diễn viên mới dưới tên Yoshiko Yamaguchi, có dịp làm việc với đạo diễn lừng danh Akira Kurosawa. Sang thập niên 1950, cô chuyển sang đóng phim ở Hollywood với tên Shirley Yamaguchi. Năm sau, cô lấy nhà điêu khắc Mỹ gốc Nhật Isamu Noguchi. Tuy cũng là người Nhật nhưng Yoshiko cũng như những ai khác lớn lên ở Trung Hoa, cảm thấy sự giằng kéo giữa hai bản sắc. Về sau, Yoshiko viết lại rằng cô cảm thấy sự thu hút đối với Noguchi như kẻ bị xé giữa hai bản thể. Tuy nhiên họ ly dị nhau vào năm 1956 và cô sống lại với cái tên Li Xianglan và xuất hiện trong nhiều phim tiếng Hoa của Hồng Kông.
Yoshiko sinh năm 1920 trong một gia đình cha mẹ người Nhật, định cư lập nghiệp tại Fushun, Mãn Châu, trong một khu dân cư mỏ than ở Dengta, Liaoyang. Cha Yoshiko là nhân viên hỏa xa South Manchuria Railway nên từ nhỏ Yoshiko đã có dịp tiếp xúc với người Trung Hoa. Quan hệ tình cảm nẩy nở khiến cha Yoshiko kết nghĩa huynh đệ với vài người Hoa, và họ trở thành cha đỡ đầu của Yoshiko và đặt cho cô tên Trung Hoa Li Xianglan.
Hồi nhỏ Yoshiko từng trải qua một trận lao phổi; để tăng cường cho sự thở, bác sĩ khuyên gia đình cho cô đi học ca. Cha cô lúc đầu bắt cô theo học nhạc truyền thống Nhật Bản nhưng Yoshiko thích nhạc Tây phương hơn nên được học luyện thanh nhạc cổ điển với giọng nữ cao kịch tính người Ý, Madame Podresov, người lấy chồng quí tộc Bạch Nga. Sau đó, Yoshiko đươc đi học ở Bắc Kinh, trau dồi thêm tiếng Quan Thoại, rồi trở thành giọng ca nữ cao soprano.
Yoshiko là một trong số những công dân Nhật nổi tiếng đầu tiên thừa nhận sự tàn ác của người Nhật trong thời chiếm đóng, cô sau đó vận động gây sự ý thức trong dân chúng về phần lịch sử đó và kêu gọi đền bồi xứng đáng cho những phụ nữ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau trong thời chiến, đã bị sử dụng làm nô lệ tình dục dưới cái tên gái giải sầu.
Bài hát Shina No Yoru về sau trở nên thịnh hành trong trong giới American GI’s đồn trú tại Nhật và Đại Hàn sau Thế Chiến II.
(Source : YouTube / Svansay)
Shina no yoru
Shina no yoru yo
Minato no akari
Murasaki no yo ni
Noboru janku no
Yume no fune
Aa wasurarenu
Kokyu no ne
Shina no yoru
Yume no yoru
Shina no yoru
Shina no yoru yo
Yanagi no mado ni
Lantan yurete
Akai torikago
Shina musume
Aa yarusenai
Ai no uta
Shina no yoru
Yume no yoru
Shina no yoru
Shina no yoru yo
Kimi matsu yoru wa
Obashima no ame ni
Hana mo chiru chiru
Beni mo chiru
Aa wakaretemo
Wasuraryo ka
Shina no yoru
Yume no yoru


Thảo luận
Không có bình luận