//
you're reading...
Chiến Tranh, góp nhặt cát đá, Truyện ngắn

Dưới tàn cây trứng cá * Nguyễn Xuân Hoàng

Chiếc GMC thả chúng tôi xuống ở một ngã tư. Mới sáng sớm mà trời đã nắng gắt. Thành phố chói chang trong lớp bụi mù. Chúng tôi rủ nhau vào một quán cà phê ở góc đường. Cà phê bít tất trong loại ly nhựa màu tro, có vẻ không sạch lắm. Nhưng so với cà phê trong quân trường thì còn khá hơn nhiều.

Chưa hết ly cà phê, người bạn cùng tiểu đoàn khóa sinh với tôi đứng lên trước. Anh dặn:

– Đúng bốn giờ. Tại đây nhé ! Ông đến trễ thì liệu đường vô trại. Bị phạt thì ráng chịu. Sẽ không ai chờ ai đâu đó.

– Ừ, bốn giờ thì bốn giờ.

Tôi trả lời bạn, nhưng vẫn tiếp tục uống cà phê. Bởi vì tôi không biết mình sẽ làm gì với những giờ phép ít oi này.

Ngồi lại một mình trong quán cóc vắng, tôi thấy mình quá lẻ loi. Bộ quân phục màu rêu, bảng tên may dính vào túi áo bên mặt, một chiếc bảng khác ghi danh số bên túi trái. Cả hai đều màu vàng làm nền cho những chữ và số màu đỏ chói. Tôi đứng dậy, không một dự định nào trong đầu. Tôi đưa tay chận cầu may chiếc tắc-xi vừa trờ tới.

Về đâu cậu? Bác tắc xi cho xe chạy chậm, hỏi. Đi đâu? Thật tình tôi cũng không biết mình đi đâu nữa. Mãi một chập sau tôi mới nói được với ông địa chỉ mà tôi muốn tới (chứ không phải địa chỉ mà tôi phải tới, phải tạt qua trong khoảng thời gian bốn giờ đồng hồ còn lại cho một ngày xuất trại).

Tôi nhớ tới Hà, người bạn gái của tôi. Hà hai mươi hai tuổi, đang làm việc cho một hãng thông tấn Nhật. Đó là một phụ nữ kỳ lạ. Tôi nói Hà kỳ lạ vì tính tình cô có vẻ như không giống với bất cứ một người con gái Việt Nam nào khác thời bấy giờ. Hà nhỏ nhắn, nhưng ngực nở, đôi mắt không đẹp nhưng sáng lóng lánh dưới đôi kính cận. Cô hút thuốc khá nhiều, gần như đốt hết điếu này là châm ngay điếu khác. Cô đã có một đứa con, nhưng không ai biết bố của cháu là người nào, mặc dù, bạn bè chúng tôi vẫn hiểu ngầm nhau rằng chính một người trong bọn tôi là thân sinh của chú bé.

Hà không xem chuyện mình không chồng mà có con là điều hệ trọng. Có lần cô nói với tôi:

– Cái xã hội này quá già cỗi, quá cổ lổ sĩ rồi, tại sao ta cứ phải làm theo luật lệ lỗi thời của nó chứ? Tôi có đời sống của tôi, tại sao tôi không sống cho tôi mà lại phải đi sống theo như người khác muốn tôi phải sống? Tôi hút thuốc, uống cà phê, đi ăn một mình hay với một người đàn ông nào khác, đâu có gì là tội lỗi. Tôi sống thoải mái, vì tôi chỉ làm những gì tôi thích, chứ không làm những gì người khác thích tôi phải làm.

Lần đầu tiên gặp Hà trong quán cà phê La Pagode, một đồng nghiệp của tôi giới thiệu Hà là một “nhà báo nữ ngổ ngáo và can đảm” của thời đại. Tôi không hiểu thế nào là một nhà báo nữ can đảm của thời đại, nhưng nhìn cách Hà châm thuốc và cách cô uống rượu mạnh tôi lờ mờ thấy phần nào tính cách đầy nam tính nơi cô.

Hôm đó, trước khi dụi tàn thuốc xuống ly cà phê, cô hỏi tôi, ông có nghĩ là chiều nay mình đi xem cuốn phim mới của Charles Bronson chăng? Đề nghị của Hà làm tôi bối rối. Chẳng phải tôi sợ điều chi, nhưng thật tình là tôi không chờ đợi nơi người bạn gái mới của tôi một gợi ý như thế. Thấy tôi lúng túng, Hà phì cười:

– Nếu bận thì thôi. Hẹn dịp khác nhé!

Và cô bỏ đi. Rõ ràng Hà không phải là một cô gái đẹp, nhưng tôi rất thích cô.

Tôi ưa cái lối nói thẳng, đốp chát vào mặt của Hà, chỉ có cách đó mới làm tôi giật mình tỉnh táo. Từ lâu tôi vẫn nghĩ bụng đàn ông bao giờ cũng vẫn mạnh hơn đàn bà. Và thế giới này đâu phải là thế giới của phụ nữ. Điều đó bây giờ phải xét lại.

Tôi biết ngày hôm nay phải dành cho Hà. Thăm cô, uống một ly cà phê, đốt một điếu thuốc cùng cô, chắc chắn là một ngày phép tốt đẹp của tôi.

Xe chạy qua đường Nguyễn Huệ. Những cây thông bán vào dịp lễ Giáng Sinh đang chất đống bên ngoài các kiosque. Tôi vỗ vỗ lên vai bác tài. Tôi nghĩ đến việc mua tặng cho Hà một cành lan.

Xe ngừng lại sát thềm một quán hoa. Nhưng tôi vẫn ngồi trên xe, chưa muốn xuống. Chiếc túi vải màu rêu đựng những khăn lau mặt, bàn chải đánh răng, một cuốn sách (mà tôi biết chắc sẽ không bao giờ có thời giờ để đọc…) đặt trên đùi.

Hà thích hoa gì? Tôi chưa có cơ hội biết ý thích của cô. Hay mình mua cho Hà một bó hồng? Có vẻ tỏ tình, cải lương quá. Nhiều khi tôi nghĩ bọn đàn ông thật là ngu si, họ nghĩ ra các các kiểu thời trang; các thứ trang sức, son phấn, nước hoa, quần áo để tạo ra những người đàn bà đẹp và quyến rũ, để rồi chính họ rơi vào những chiếc bẫy do chính mình đã tạo ra đó.

Tôi nhớ một lần chở Hà đi chơi về khuya qua đây, Hà đòi tôi ngừng xe ở cái quán hoa này. Hôm đó tôi rất ngạc nhiên vì tôi biết tính Hà bất cần đời, không ưa làm dáng và ghét ỏng ẹo. Tôi tưởng Hà muốn tôi mua hoa tặng cho cô. Nhưng không. Người bước xuống xe là Hà. Cô vào quán mang ra cho tôi một bông hồng, dí vào tay tôi, bắt tôi nhận. Hà nói:

– Tôi thích tặng hoa này cho anh, chẳng phải vì hoa hồng nhung có nghĩa là tôi yêu anh say đắm đâu, tôi muốn tặng nó cho anh bởi vì tôi muốn thế, anh hiểu không?

Anh hiểu không? Hình như ở mỗi cuối câu nói của cô đều có những tiếng đó, giống như lối chấm dứt mỗi câu của những huấn luyện viên tại quân trường mà tôi đang thụ huấn (Nghe rõ chưa? Rõ. Nghe rõ chưa? Rõ…) những điệp khúc đó thật khó quên nhưng khó hiểu và khó có thể rõ được.

Bữa đó tôi mang hoa về cắm trong cái ly để bàn chải đánh răng trong buồng tắm. Buổi sáng khi đang ăn điểm tâm, Lan hỏi tôi đột ngột, cô nào tặng hoa cho anh vậy. Tôi không giấu chuyện Hà tặng hoa. Tôi nghe tiếng Lan cười, “đàn bà, con gái ai lại đi tặng hoa cho đàn ông”. Tuy vậy, về sau, thỉnh thoảng Lan cũng hỏi tôi:

– Chuyện của anh với cô Hà đi đến đâu rồi?

Tôi trả lời:

– Chẳng đi đến đâu hết.

Lan im lặng, không có vẻ gì là tin lời tôi nói. Sự im lặng của Lan không làm tôi ngạc nhiên.

Tôi xuống xe, bỏ lại chiếc túi vải màu rêu trên băng ghế sau. Tôi đã quyết định mua tặng Hà một nhánh lan, trơ trọi một bông hoa màu trắng man dại. Tôi nghĩ đến Hà với dáng vẻ cứng cỏi lạnh lùng, nhưng đôi khi bất ngờ mềm mại đam mê cuồng nhiệt.

Tôi trả tiền cầm nhánh lan chui vào lại tắc-xi. Bác tài xế ngủ gục trên tay lái, trán úp lên hai cánh tay, bất động trong một buổi sáng Sài Gòn đầy nắng cháy da.

Tiếng đóng cửa xe làm ông ta giật mình tỉnh dậy và không đợi tôi nói, ông cho máy nổ, chạy tiếp. Tôi gợi chuyện về đời sống thành phố, ông nói sinh hoạt bây giờ đắt đỏ quá, đời sống càng ngày càng khó khăn. Ông hỏi tôi bao giờ thì ra trường, liệu người ta có còn đánh nhau nữa không. Ông nói đứa con trai lớn của ông vào lính chưa đầy hai năm và mới chết trong một trận đánh vào tuần rồi.

– Nó bằng tuổi của cậu, và con vợ nó đã chạy theo một thằng đàn ông khác. Tới chừng nào thì hòa bình hả cậu, cậu có tin hòa bình sắp đến nơi rồi không? Thằng út của tôi vừa thi trượt lớp Đệ Thất, tôi không chạy được xe ban đêm, mắt tôi yếu lắm, đèn chói không thấy lối nào mà tránh. Tết nhất lại đến nơi rồi… Mà cậu có gia đình chưa, tôi nhớ thằng hai tôi quá, liệu người ta có còn đánh nhau nữa không?…

Tôi không ngờ ông nói nhiều đến thế. Tôi nói tôi sắp ra trường, chắc người ta sẽ không đánh nhau nữa đâu, phải có lúc người ta mệt mỏi chứ và tôi tin chắc là người ta đã bắt đầu mệt mỏi rồi, tôi đã có gia đình và tôi tin tưởng sẽ có hòa bình, tôi là người lúc nào cũng hy vọng, tôi thành thật chia buồn cùng ông và tôi nói con ông đã sống xứng đáng. Tôi châm một điếu thuốc và mồi cho ông một điếu khác. Tôi thấy da mặt ông nhăn nhúm. Và những sợi râu cứng mọc chìa hai bên mép.

Khi xe chạy ngang qua một khu chợ nhỏ, đường một chiều chật nghẹt những người mua bán, ông nói, tết này không hiểu mấy “ổng” có tính “chơi” nữa không đây? Tôi cười, nhớ hồi Tết năm ngoái bị kẹt ngoài Vũng Tàu, gần một tháng trời, hết nghe đài phát thanh lại đọc sách. Có khi nằm lì trong khách sạn, có lúc xuống bãi nằm hoặc ra bến xe đò nghe ngóng tin tức. Những cuốn sách đã đọc lại được đem ra đọc thêm một lượt nữa, những mẩu báo đã cũ (gói bánh mì buổi sáng) cũng đem ra rị mọ từng dòng, từng chữ như thể từ nay sẽ không bao giờ còn chữ để mà đọc nữa.

Lan nói lúc này mà anh còn có can đảm đọc sách được kể cũng lạ thật. Tôi đáp, nếu không làm việc đó thì em nghĩ tôi phải làm gì bây giờ? Lan không trả lời. Cô ấy chẳng bao giờ trả lời những câu hỏi ngược của tôi. Tôi ưa nóng giận một cách vô lý, Lan biết và cô ta đã kịp thời làm nguội những cơn giận đó.

Buổi sáng tôi ra bãi, nằm dài trên cát nhắm mắt [vì bị chói nắng], hút thuốc lá lắng tai nghe những tiếng động xung quanh, một lúc những tiếng động đó bỗng nhỏ dần trong đầu tôi và tôi chợt thấy mình sống lại những ngày tuổi nhỏ lang thang ở quê nhà miền biển, bãi cát, bụi dương, đường phố và mặt nước xanh với tiếng sóng đập ầm ì trên những kè đá…

Lúc đó, tôi lại thấy hình ảnh của Hà giống như những đóa lan rừng mọc trên những cành trơ trụi. Và đứa trẻ lang thang là tôi chui nhủi lẩn trốn trong những hang động của tuổi thơ bỗng như sống dậy đi đứng chạy nhảy. Đó cũng còn là những hình ảnh mà tôi đã thình lình bắt gặp qua những lần nói chuyện với Hà, nghe cái giọng nói khàn khàn của cô nhuốm vẻ xúc động, và quyến rũ làm sao.

Hà đang ngồi giặt một chậu lớn quần áo dưới tàn cây trứng cá trước sân nhà. Tôi nhận ra vài chiếc áo Hà vẫn mặc mỗi khi đi chơi với tôi và một ít đồ lót mà đã có lần tôi vò nát chúng trong tay. (Tôi thích nhìn đàn bà trong bộ đồ lót hơn là ngắm họ với quần áo tề chỉnh hay trần truồng. Tôi cố hiểu nhưng không sao phân tích nổi vì đâu có cái ý thích đó. Dẫu sao, khi người đàn bà chỉ mặc đồ lót thôi, họ trở nên duyên dáng hơn, dễ thương hơn và quyến rũ hơn. Tôi nghĩ thế.)

Hà ngước lên nhìn tôi với chiếc bàn chải trong tay đầy xà phòng.

– Về phép à? Sao lại giờ này?

– Không, về có chút việc. Xong công tác thấy còn ít giờ, không biết làm gì, lại đây.

– Không biết làm gì, lại đây?

– Chỉ nghĩ như vậy thôi, cũng được.

– Đùa đấy. Vào nhà chơi đi.

Hà vừa nói vừa khoắn tay trong chậu nước đầy bọt xà phòng. tôi nhìn thấy một phần ống quần của Hà ướt nước, hai bàn chân trần trắng xanh (vẫn thường giấu kín trong giày cao mỗi khi đi chơi với tôi) gợi một cảm giác tươi mát và thèm muốn.

Tôi xua tay:

– Cứ giặt tiếp đi, tôi ngồi xem cũng được.

– Đừng khôi hài. Anh sẽ thấy tôi ngồi giặt có vẻ kỳ cục lắm.

– Cô tưởng tôi dễ bị những hình ảnh này đánh lừa hay sao?

Hà đứng lên, vói chiếc gáo múc nước sạch trong phuy xối rửa tay:

– Tôi thường thanh toán quần áo dơ mỗi tuần một lần. Những lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì cả.

– Không nghĩ ngợi gì? Thật vậy sao?

– Không hẳn thế. Tôi cũng có nghĩ trong lúc giặt đồ nhưng là những ý nghĩ nhẹ nhàng và vui tươi hơn, những ý nghĩ của bọt xà phòng, của sự cử động không đều đặn, của hai bàn tay.

– Thế còn thân thể? Nó không cho cô một ý nghĩ nào sao?

Hà cười trỏ cho tôi một chiếc xích đu dành cho trẻ con đặt dưới gốc cây trứng cá.

– Anh ngồi đó đợi tôi một lúc. Nói chuyện ở ngoài dễ chịu hơn.

Hà quay vào nhà. Tôi đến bên xích đu ngồi xuống bỏ mũ ra và chợt nhận thây cành hoa lan vẫn còn trong tay mình. Hà trở ra, tóc đã chải lại gọn hơn, khuôn mặt tươi mát hẳn. Cô đặt ly nước lạnh trong tay tôi và châm cho tôi một điếu thuốc.

– Chắc người nhà binh khát nước?

– Cám ơn. Tôi đang khát lắm đây. Chợt Hà kêu lên:

– Trời ơi, mang hoa đi tặng ai thế này?

Tôi đưa hoa cho Hà.

– Này, nhận đi và đừng hỏi gì nữa.

– Tại sao?

– Nếu trả lời được câu hỏi của cô thì tôi đã không mang nó đến đây làm gì.

– Orchidée à? Tôi thích lắm. Có cần phải nói…

– … Không, không cần phải nói cám ơn gì hết.

Tôi thả điếu thuốc xuống đất, dí mũi giày lên (tôi không chịu được mùi thuốc của Hà, nó nhẹ nhưng hốc cổ, có lẽ tôi phải đi mua một bao thuốc cho tôi, tôi để ý thấy chẳng bao giờ Hà hút thứ thuốc tôi hút, có phải sự khác nhau đó làm cho chúng tôi gần nhau?)

– Anh có muốn đi ăn gì không?

– Không. Tôi không đói.

– Anh có đủ thì giờ đi xem một cuốn phim không?

– Không. Chắc là không đủ đâu.

– Vậy mình làm gì bây giờ?

– Chẳng cần phải làm gì cả. Nếu cô bận chuyện gì thì cứ làm cho xong. Tôi chỉ còn ngồi lại với cô một chút nữa thôi. Tôi phải trở lại quân trường.

Tôi chỉ nói vậy thôi. Vì tôi biết thì giờ của tôi đâu đã hết.

Chúng tôi sau cùng đến ngồi ở quán cà phê trên đường Tự Do. Không phải quán Cái Chùa mà bọn tôi vẫn quen ngồi. Hà kéo tôi vào quán Continental. Tôi hỏi tại sao. Hà nói để tôi giới thiệu với anh một chị ký giả người Ý này hay lắm. Tôi bảo Hà là tôi không còn thì giờ đâu. Nếu tôi sa đà vào trễ thì sẽ bị phạt và như vậy tuần tới khó mà lấy được phép. Hà hỏi tôi giờ chính xác phải trở lại quân trường. Khi nghe tôi nói giờ và nơi hẹn, cô cười bảo thế thì còn thừa mứa ra đấy lo gì.

– Tôi sẽ đưa anh đến nơi đúng giờ. Và nếu bị trễ thì tôi vẫn có cách để tuần tới tôi vẫn lôi anh ra được như thường. Bây giờ, anh đi uống cà phê với tôi, tôi sẽ kể chuyện lấy tin chiến trường cho anh nghe.

Quán Continental ít khách Việt, phần lớn là đám ký giả ngoại quốc. Tôi không thích quán này vì cái cấu trúc rất thực dân của nó. Mặt bằng của nó cao hơn mặt đường Tự Do, ít ra cũng bằng chiều cao của một người Việt Nam trung bình. Ngồi uống một chai la ve ngó xuống mặt đường như kiểu quan trên trông xuống cái đám tiện dân qua lại. Tôi biết Hà không nghĩ như tôi. Cô có nhiều bạn ở khách sạn – nhà hàng ăn này, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cô đi với mấy người Nhật hoặc một anh chàng ký giả Pháp nào đó, mà cô có lần giới thiệu với tôi.

Tuy vậy tôi chưa có dịp thấy một nữ ký giả ngoại quốc nào. Tôi vẫn nghĩ cuộc chiến Việt Nam ngày càng ác liệt, khó mà có một người con gái phương Tây nào chịu đến đây “xông vào làn tên mũi đạn” như Hà. Có mà điên! Hà nói:

– Anh thì biết gì chứ. Cái đầu óc coi thường phụ nữ thâm căn cố đế của mấy ông chắc còn lâu mới gột sạch. Để anh gặp chị này anh mới thấy, không phải anh đàn ông nào cũng làm được điều mà chị ấy làm đâu đấy.

Hà gọi hai chai bia và khi người bồi mặc toàn trắng mang bia ra, cô dúi vào tay anh ta tờ giấy bạc cuộn tròn như điếu thuốc, hỏi:

– Tôi có cái hẹn với chị Oriana Falli- ci. Từ sáng tới giờ, anh có nhìn thấy chị ấy đâu đây không?

– Thưa cô không.

A! Anh ta đập tay lên trán, tờ giấy bạc của Hà đưa vẫn còn nằm trong lòng bàn tay.

– Tôi nhớ rồi, bà ấy đã đi đâu từ sáng sớm với ông François Pelou, cái ông người Pháp cao lớn đẹp trai như tài tử xi nê đó!

– Thôi chết tôi rồi.

Hà nói với người bồi bàn:

– Tôi lỡ cái hẹn với chị Fallici. Tôi hẹn chị hôm qua chứ không phải hôm nay. Xin cám ơn anh.

– Nhưng mà Fallici là ai vậy? Tôi hỏi.

– Đó là một con người mà anh cần phải gặp. Tôi chưa thấy một phụ nữ nào tuyệt vời như chị ta. Tôi cũng có quen một nữ ký giả người Pháp tên Catherine Leroy, nhưng tôi vẫn nghĩ khó mà tìm một người có thể so sánh với Fallici.

– Xinh đẹp?

– Theo tôi đó là một người phụ nữ nhan sắc. Tới nơi tới chốn. Anh gặp chị ta thì anh chỉ có nước chết thôi chứ không sống nổi đâu.

– Tôi cũng mong được như vậy. Cô cứ tin tôi đi, khi một người đàn ông không còn rung động trước sắc đẹp của một phụ nữ nữa thì cuộc đời ông ta coi như cũng đã xong.

– Nhưng tôi tưởng cuộc đời anh coi như đã xong từ lâu rồi chứ!

– Thì cứ coi là như vậy đi.

Tôi nói gượng gạo. Và tôi ngạc nhiên không biết tại sao hôm nay Hà tấn công mình tới tấp như thế.

Thế nhưng, Hà ngồi im lặng như một bức tượng. Cô đặt ly bia xuống, lấy một điếu thuốc, khum tay che mồi lửa. Một lúc lâu, Hà nói:

– Có lần tôi hỏi chị ấy câu này…

– Chị ấy là ai vậy? Tôi ngắt lời Hà.

– Trời ơi! Anh làm sao vậy? Thì chị ấy là Fallici đó.

Hà cười. Hàm răng cô không trắng lắm. Nhưng tôi thấy đôi mắt cô sáng lên dưới mắt kính cận.

– Có lần tôi nói với chị rằng đất nước này là của tôi, tôi sống và chết với nó đã đành, còn chị chuyện gì mà phải đến đây chứ!

– Thế rồi chị ấy trả lời Hà làm sao?

– Chị ấy nhún vai bảo tôi hỏi câu ngu ngốc. Và chị hỏi sao tôi không hỏi cái anh chàng đẹp trai như Alain Delon kìa vì sao bỏ Paris qua cái xứ chiến tranh triền miên này làm cái gì?

– Nhưng cái anh chàng đẹp trai kia là ai vậy chớ?

– Anh ấy là François Pelou, hãng thông tấn Pháp.

– Và anh ấy trả lời làm sao?

– Tôi có hỏi đâu. Chính Fallici nói cho tôi nghe mấy suy nghĩ của chị ấy…

Hà dụi điếu Salem hút nửa chừng xuống cái gạt tàn.

– Bởi vì chị cũng đã đặt một câu hỏi tương tự với những người đồng nghiệp của chị: Họ tìm cái gì ở đất nước bất an này vậy? Đi tìm một cảm giác mạnh cho đỡ buồn chán chăng? Hay là bị người tình ruồng bỏ đi tìm sự lãng quên? Hay đến Việt Nam để tìm một huy chương cho cuộc đời, một tên tuổi trong làng báo sẽ nổi lên nhờ chiến tranh hoặc nhờ cuộc chiến này mà có được một số tiền nếu bán được bức ảnh hay một thiên phóng sự?…

Hay nói theo cái cô nhiếp ảnh người Pháp Catherine Leroy thì trước đó nghe nói chiến tranh hoài mà không biết thế nào là chiến tranh cho nên đến Việt Nam cho biết. Còn chị ấy thì sao hả?

Fallici bảo chị đến Việt Nam để tìm hiểu con người, chị muốn biết con người nghĩ gì khi giết người khác và bị người khác giết lại. Chị muốn trắc nghiệm một điều mà từ lâu chị vẫn tin tưởng: Chiến tranh là một việc làm vô ích và ngu ngốc, là bằng chứng súc vật nhất về tính ngớ ngẩn của loài người. Theo chị chúng ta đang sống trong một thế giới giả dối. Một mặt con người ca tụng sự thành công của một cuộc giải phẩu ghép tim, mặt khác họ lại để cho hàng ngàn, hàng triệu con người trai trẻ khỏe mạnh với trái tim rất tốt đi vào chỗ chết như những con bò đi vào lò mổ chỉ vì một lá cờ.

Khi tôi đến nơi hẹn, người bạn tôi không có đấy. Tôi đã đến trễ chăng? Hay không chừng họ sắp tới. Tôi nán lại chờ thêm một đỗi lâu nữa. Đường phố đã bắt đầu đen nghẹt trở lại. Khói xe, bụi mù của đường, và những nét nhăn nhó trên mặt mỗi người lướt qua. Ngã tư đèn xanh, đèn đỏ.

Một chiếc xe nhà binh bóp còi chát tai vụt qua đẩy tạt tôi lên lề đường. Tôi thấy trên tay tôi còn cầm tờ giây phép xuất trại.

Phải lâu lắm tôi mới đón được xe về lối Chợ Cầu. Hình như tôi là người thứ nhất trong ba đứa đã trở lại doanh trại.

Hãy tưởng tượng giờ đây tôi đang ngồi dưới bóng mát của cây bả đậu, (loài cây thân to, lá xum xuê đầy gai, những trái tròn có khứa như cà chua và hơi buồn thảm) trước mặt là con đường mương dài nước đen ngầu với rêu xanh và đã được chà láng thật láng, con đường mương mà những ngày đầu tiên khi mới đến tôi đã đốt nến, vất vả, nguyền rủa để chà nó bằng lưng của chiếc gà-mên cơm.

Hãy tưởng tượng giường ngủ của tôi bằng gỗ cứng nhắc, túi quân trang gối đầu đầy ắp những poncho, quần áo, bít tất, thắt lưng đạn, lều cá nhân, bình nước và đủ thứ. Tôi biết những ngày sắp tới của mình không còn bình thường nữa. Tôi càng không bao giờ tưởng tượng là sẽ có một ngày mình có người yêu là Hà.

Tình yêu của Hà và tôi, nếu có chỉ là thứ tình yêu tưởng tượng thôi.

Thời chiến tranh, tình yêu đôi khi là xa xí phẩm.

1968.

(Nguồn : vietmessenger.com)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục