//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Nhân vật, Nobel Văn Chương

Dự án Manhattan: Phế liệu của László Krasznahorkai

Đinh Từ Bích Thúy chuyển ngữ

Steam outlets (Ống thoát hơi nước), Fifth Avenue. (Ảnh: Ornan Rotem)

László Krasznahorkai tiếp cận nghệ thuật kể chuyện từ góc độ của hỗn loạn và thất bại. Những nhân vật của ông là những anh hùng điên hoặc các vị tiên tri bị đày ải bởi không gian và thời gian. Trong truyện vừa Spadework for a Palace (Phế liệu cho một Cung điện), nhân vật chính của Krasznahorkai, herman melvill, tin rằng chân lý của vũ trụ đã được hóa thân vào con cá voi trắng khổng lồ của Herman Melville: một biểu tượng đầy dẫy sự “nguy hiểm, rủi ro, áp lực và hủy diệt.” Lang thang ở khu Lower East Side của thành phố New York, melvill sống lại cuộc đời hẩm hiu gần như bị quên lãng của Melville sau khi trường thiên tiểu thuyết Moby Dickbị giới phê bình Hoa kỳ chỉ trích nặng nề. Spadework cũng thuật lại trải nghiệm đau thương của Malcolm Lowry khi ông phải vào bệnh viện tâm thần Bellevue ở New York—sau trở thành nền tảng cho tiểu thuyết Lunar Caustic của nhà văn; cùng những thiết kế quái dị mang phong cách phá huỷ, thay vì xây dựng, của kiến trúc sư Lebbeus Woods.

Spadework là mặt hư cấu, sáng tạo từ “phế liệu” của The Manhattan Project(Dự án Manhattan)—bao gồm những đoạn nhật ký mà László Krasznahorkai ghi xuống trong khoảng thời gian 2014-2016, như cách ông xây nền cho tiểu thuyết Spadework. Tựa đề Dự án Manhattan mang hơi hướm châm biếm, mỉa mai, vì ai cũng biết đó là tên gọi dự án chế tạo bom nguyên tử dưới sự điều hành của nhà vật lý lý thuyết J. Robert Oppenheimer—giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos—mà kết quả là một hiện tượng khủng khiếp đã hoàn toàn thay đổi vận mệnh nước Mỹ cũng như thế giới trong thế kỷ 20. Trái lại, những suy niệm trong Dự án Manhattan của Krasznahorkai đề cập đến các con người sáng tạo đã từng bị người đời coi là thất bại và vô dụng—hiện thân của phế liệu. Cả ba—Melville, Malcolm Lowry, Lebbeus Woods—đều là những nghệ sĩ mà sau khi chết mới được tôn vinh.

Thật ra thì số phận của Robert Oppenheimer cũng không khác số phận các nhân vật của Krasznahorkai. Tuy Oppenheimer được tôn vinh lúc đầu nhưng sau đó cũng bị đồng nghiệp và chính quyền Mỹ ruồng bỏ qua chuyện ông bị truất giấy phép miễn trừ an ninh và khả năng nghiên cứu (một cách bị rút phép thông công) khi ông chống lại cuộc chạy đua hạt nhân với Liên Xô và việc phát triển bom khinh khí vào thời Chiến Tranh Lạnh. Như vậy sự thất bại của nhà khoa học Oppenheimer cũng tương đương với sự thất bại của ba nghệ sĩ kia, cũng chỉ vì họ là những nhà tiên tri rao giảng trước một thế giới mù.

Khôi nguyên Nobel László Krasznahorkai sinh ra ở Hung Gia Lợi, đã từng sống ở Nhật Bản và Trung Quốc trước khi định cư ở Berlin. Cho đến nay ông đã viết khoảng 9 tiểu thuyết, 4 truyện vừa, và hai tuyển tập truyện ngắn. Năm 2015, ông là tác giả Hung Gia Lợi  đầu tiên được trao giải Giải thưởng Man Booker Quốc tế.

The Manhattan Project, với những hình chụp đen trắng của nhiếp ảnh gia Ornan Rotem, được nhà xuất bản Sylph Editions phát hành vào tháng 6 năm 2017. Tiểu thuyết vừa Spadework for a Palace (dịch giả John Batki), được nhà xuất bản New Directions phát hành như “loại sách cổ tích cho người lớn” (“storybook for adults”) vào tháng 9 năm 2022.

ĐI BỘ VỚI HERMAN MELVILLE

New York, tháng Năm 2016

[Thoạt đầu] chỉ một mình Melville thu hút tôi. Chỉ Melville thôi, tôi không biết tại sao. Melville nhà văn thất bại với Moby Dick. Sự sa xuống địa ngục của ông, sự bị đày ải ra khỏi nền văn học Hoa kỳ đã bắt đầu với Moby Dick. Ông sống thêm được vài chục năm sau khi tác phẩm ra đời, và mặc dù ông đã sáng tác Moby Dick bên cạnh một sự nghiệp văn chương quả là phi thường, ông phải kiếm sống qua ngày với chức thanh tra hải quan ăn lương quèn của nhà nước, hoàn toàn bị quên lãng ở phương diện văn chương lúc sinh thời. Dĩ nhiên hình ảnh một Melville bị chính đồng hương ông quên lãng không an ủi tôi tí nào, mà còn làm tôi thấy chua xót hơn. Tôi đi cùng với ông vào Thư viện Công cộng, ông quẹo với tôi ở góc đường có toà nhà Chrysler, rồi ông đi theo tôi về căn nhà thuê của tôi và lên tuốt trên sân thượng, nơi chúng tôi cùng nhau hướng mắt về hướng nam, nơi Tượng Thần Tự Do đang giơ cao ngọn đuốc soi đường cho dân đen.

***

MỘT NGƯỜI BẠN CŨ ĐỔ THÊM DẦU VÀO LỬA
Berlin, Mùa hè 2015

Café (Ảnh: Ornan Rotem)

Tôi ngồi ở quầy bar Zwiebelfisch tại Berlin với David Bell, học giả Kant lừng danh; đây là một trong những nơi anh thường lui tới và cũng là điểm hẹn duy nhất chúng tôi có thể gặp nhau bất cứ lúc nào anh ghé Berlin mà không bị quấy rầy. Như thường lệ, chúng tôi ngồi im lặng bên nhau thật lâu, hít thở bầu không khí âm ẩm ngoài thời gian của quán bar, nặng trĩu mùi khói thuốc lá quyện với mùi thức ăn. Rồi sau đó, tôi phá vỡ sự im lặng và chia sẻ, gần đây tôi thật ngạc nhiên khi thấy mình bị ám ảnh bởi Herman Melville, và cũng tình cờ phát hiện sự liên hệ kỳ lạ giữa Melville và Malcolm Lowry. David nhấp một ngụm bia, suy nghĩ một lúc, rồi kể một giai thoại cũ về Lowry: Lần đầu tiên khi Lowry đến New York, tức là, như thường lệ ở trạng thái say xỉn tưởng có thể chết được, ông ta xuống tàu tại bến East River. Trước mặt nhân viên hải quan, ông mang một chiếc vali cũ khổng lồ nhưng lại đung đưa trong tay một cách rất nhẹ nhàng. Họ hỏi ông ta, cái gì trong vali thế, ngài Lowry? Lowry trả lời ừm, tôi không chắc lắm, nhưng sao các vị không mở ra mà coi. Họ bảo ông ta mở vali, và, trước sự kinh ngạc của những nhân viên hải quan tưởng như từng trải này, vali thấy gần như trống rỗng, ngoại trừ một chiếc giày đá bóng bầu dục (rugby shoe) đã mất bạn tào khang và một cuốn Moby-Dick bìa mềm rách nát cứ lạch cạch bên trong. Anh hiểu chứ, David nói, mắt lấp lánh, một chiếc giày tồi tệ, không phải một đôi, mà là một chiếc giày đá bóng đơn lẻ và một bản Moby-Dick đã được lật giở khá kỹ. Anh biết đấy, David nói tiếp, theo cách tôi hình dung, trước đó Lowry ngồi ở nhà ông ta bên cạnh một tủ quần áo mở toang, chiếc vali cũng đang mở trên giường, và ông ta lấy một cái áo sơ mi từ tủ quần áo ra, một cái áo sơ mi, ông ta nhìn nó một cách chế giễu, lắc đầu và ném nó sang một bên, rồi ông ta lôi từ tủ ra một cái quần, lại lắc đầu và ném nó sang một bên, và cứ thế, tương tự với bí tất cà vạt đồ lót bàn chải đánh răng ô dù, tất cả các thứ, vì một lý do nào đó chỉ mình ông ta hiểu, có thể không xứng đáng, hoặc không đủ tầm quan trọng, để được cho vào vali, và chỉ khi ông ta chạm tới chiếc giày rugby mồ côi đó thì ông ta mới gật đầu, chà, cái này nhất định phải mang theo, rồi ném nó vào vali, và tương tự với cuốn Moby-Dick đã rách nát, một chiếc giày rugby và Moby-Dick, rổi ông ta đóng vali lại, và anh biết không, David vừa cười vừa nói, Lowry chắc hẳn là một tên khùng nặng, anh có thể đọc về giai thoại này trong sách của Gordon Bowker, Douglas Day, trong bất kỳ tiểu sử nào về Lowry, họ đều đề cập đến câu chuyện này, nhưng có một vấn đề lớn, và tôi muốn nêu rõ điểm này với anh, trước khi anh đắm mình sâu hơn vào chuyện này, và lúc này David nhìn tôi nghiêm nghị, một số người thuật lại đó là một chiếc giày bóng chày, và những người khác thì nói đó là một chiếc giày bóng bầu dục, thậm chí có lời đồn rằng vật thể đáng ngại này là một chiếc giày bóng bầu dục Mỹ, nhưng anh phải nhớ rằng không thể có sự bấp bênh trong câu chuyện này: chắc chắn trong vali của Lowry lúc đó là một chiếc giày bóng bầu dục và không là vật gì khác. Ánh mắt của David bỗng như quắc lên, như thể giai thoại về Lowry đối với anh không phải là một chuyện đùa; ánh mắt David như nói: không thể có hai ý kiến về chuyện này. Anh nâng cốc bia của mình lên, và khi anh uống thêm một ngụm nữa tôi có thể thấy anh nhìn tôi một cách hơi chế giễu qua vành cốc. Trong suốt bao nhiêu năm làm bạn với anh, tôi chưa bao giờ hỏi David liệu anh có phải là học giả duy nhất trong môi trường Anh ngữ đã dành cả sự nghiệp của mình cho triết học của Kant.

***

MỘT VIÊN KIM CƯƠNG TRONG ĐỐNG RÁC

New York, Tháng 9 năm 2015

László Krasznahorkai ở MOMA PS1. (Ảnh: Ornan Rotem)

Tôi thật tình không muốn đến trung tâm nghệ thuật MOMA PS1[1] để xem triển lãm tựa đề Greater New York (Nữu Ước Mở Rộng), một sự kiện mà mọi người đang đổ xô đến; nhưng tôi không muốn đến đó vì tôi sợ rằng tôi sẽ phải đối diện với màn trình diễn hào nhoáng nhưng trống rỗng và nhàm chán của bao nhiêu thứ thượng vàng hạ cám, cách một vật phẩm sao chép một vật phẩm khác, và tất cả mọi thứ đều nằm nghiêm ngặt trong một ranh giới nhất định mà không ai dám vượt qua, xét cho cùng thì các nghệ sĩ không trưng bày các vật phẩm của mình ở đây để vượt qua những ranh giới tiền định, mà chỉ để cố lấy cho mình một chút danh vọng, sự thành công được độc quyền chia chác trong những ranh giới đó. Nhưng vợ tôi bực mình, và nói một cách trách móc rằng anh không thể ngồi cả ngày trong văn phòng ở Thư viện Công cộng, hoặc nằm lì ở nhà – bởi đây chính là điều anh đang làm, anh chỉ tá túc ở Manhattan và không chịu đi đâu cả, tại sao, anh có thể làm điều này ở bất cứ nơi nào khác, anh không cần phải đến New York để chỉ ngồi rù trong một cái hang, thật đấy – và nàng nhìn tôi thật dịu dàng khi lấy một bộ áo liền quần bằng lụa mới mua ra khỏi tủ áo, anh phải đi ra ngoài, giao lưu một chút, anh phải xem thế giới nghệ thuật đang diễn ra những trò gì, ví dụ như ở MOMA PS1 chẳng hạn. Không, tôi nói, thề với Chúa là tôi không đi đâu hết. Thế là chúng tôi đến MOMA PS1. Tôi diện bộ complet, vợ tôi mặc bộ áo liền quần bằng lụa mới mua rất thời trang của nàng. Đám đông lan man vĩ đại. Những khuôn mặt trẻ ở khắp nơi, trang phục thời trang, không khí hào hứng, bao nhiêu tiếng ồn, những hàng người sắp hàng ngang dọc. Triển lãm y hệt như tôi đã tưởng tượng. Tôi giận mình đã nghe lời vợ đến chỗ này. Rồi tôi hậm hực ra hành lang tìm lối đi đến căng tin của bảo tàng, nhưng không hiểu sao lại thấy mình ở tầng ba gần một chuỗi ảnh chụp toàn những cánh cổng và lối vào nhà, được cắt cùng kích thước và treo thành một hàng ngang tầm mắt người xem, nên chúng giống như một đàn ngỗng xinh xắn đang diễn hành trên tường. Ngoại trừ việc những bức hình này bằng cách nào đó đã thu hút sự chú ý của tôi, và chính vì chuỗi ảnh này mà tôi không quay lại và do đó đã không nhìn thấy – cuối cùng! –lối đi ngắn nhất dẫn đến căng tin, nhưng tôi phải giải thích rõ hơn, ánh mắt tôi chỉ lướt qua chuỗi hình ảnh này mà không thực sự nhìn kỹ bất cứ bức nào, thậm chí cũng không giảm tốc độ đi hay dừng lại trước một bức nào, bởi vì chúng chỉ thu hút tôi toàn diện như một tập thể, nói cách khác, những bức ảnh thu hút tôi như những ký hiệu chỉ đường, như cách người ta đi đường quen nên không cần suy nghĩ, gần như vô thức, ở mức độ chú ý lờ mờ, cứ con đường đó mà đi nhưng không có một chương trình hay mục đích nào cả. Chuỗi hình treo kết thúc và, như thể có chủ ý, dẫn tôi vào một phòng trưng bày. Ở giữa căn phòng đó, tôi thoáng thấy một mô hình bằng giấy và bìa cứng dựng lên một cảnh đường phố với những tòa nhà cao ở hai bên, nhưng kìa, ở một góc nhọn bị gẫy gập, là hình thể khổng lồ như của một quái vật đâm bổ từ trên cao; mô hình giờ đây nằm đó, bị tê liệt bởi thảm họa có thể gây chết người này, bên trong một tủ kính trưng bày trong suốt lặng lờ ở giữa phòng. Nhìn vào mô hình tôi thấy rằng không những khó mà gần như vô phương để giải thích về hiện tượng quái vật này, nếu có thể gọi đó là một quái vật, và thuật lại điều gì đã có thể xảy ra cho mô hình trong tủ trưng bày này. Bởi vì mới nhìn qua thì quái vật giống như một dụng cụ quân sự nào đó, na ná như vậy, nhưng khi nhìn kỹ hơn thì nó là một cấu trúc kỳ lạ, kinh khiếp, được hình thành bằng các mặt phẳng được sắp xếp ở nhiều góc độ đối nghịch; kích thước nó khổng lồ, lớn hơn nhiều so với kích thước các tòa nhà, một vật thể tượng trưng cho sự hủy diệt. Tôi nhìn chằm chằm vào nó như bị thôi miên, quên hẳn mình đang ở đâu. Căng tin giờ đây đã hoàn toàn bị lãng quên.

Ý nghĩ duy nhất trong óc tôi lúc đó là tôi đang quan sát một tác phẩm nghệ thuật. Tôi liếc quanh căn phòng trưng bày: các tác phẩm đều mang cùng tên một nghệ sĩ, cái tên xa lạ với tôi, các bản vẽ, bản phác hoạ, hình ảnh màu và đen trắng, một số mô hình khác, nhiều cấu trúc khác biệt nhưng đều tuyệt đẹp, cùng sơ đồ phóng đại những góc cạnh tương tác nhưng khuất bên trong của các mô hình, tất cả trông có vẻ hơi lỗi thời, hoặc cũng không hẳn như vậy; có lẽ chúng được sáng tạo bởi một tay nghiệp dư hoặc kẻ đứng ngoài những sinh hoạt nghệ thuật đương đại. Ngoại trừ đây chính là những tác phẩm của một thiên tài.

Mô hình “Zagreb Free Zone” của Lebbeus Woods (1991)
Drawing Center Gallery, Soho, New York.

Tôi không muốn nấn ná thêm nên sau đó chia tay vợ, nói rằng tôi cần phải rời chỗ này gấp, vì có một vấn đề mà tôi phải tìm hiểu ngay nên phải đi, nàng thì muốn ở lại, nàng trả lời tôi trong lúc đứng giữa một nhóm bạn mà nàng vừa hội ngộ ở phòng triển lãm. Tôi đi tàu điện số 7 về nhà, bật máy tính, để xem người nghệ sĩ này là ai.

Lebbeus Woods.

Tôi chưa bao giờ nghe tiếng ông này. Một kiến trúc sư.

Đã chết ba năm trước.

Tôi tra cứu tác phẩm của Lebbeus Woods trên mạng.

Chúng thực sự tuyệt đẹp, tôi không có từ nào khác dành cho chúng.

Và giả thử tôi có một vài từ, thì tôi sẽ mô tả những gì tôi thấy như thế nào?

Vươn lên từ đằng sau những tòa nhà bị tàn phá là những kiến trúc quái dị, những bề mặt vỡ vụn, đẹp kinh hồn, với tinh chất như bị giao động và tổn thương của chúng kết hợp lại thành một loạt mặt phẳng hung hãn. Một tòa nhà máy như đang bị sụp, đúng là một quái vật, các góc lồi của nó như gầm gừ với nhau, ở thế lởm chởm chênh vênh trên mặt tiền toà nhà. Các tòa nhà khác, như liên minh của những cấu trúc cực kỳ phức tạp thì nhất quyết từ chối tiết lộ bí mật của chúng: chúng là gì? Chúng là ai? Bộ óc điên rồ nào, làm việc vì nguyên nhân hùng vĩ nhưng bí hiểm nào, đã tạo ra chúng? Các vật thể của một kiến trúc điên rồ, được xây dựng trên những đường cong cong như ung thư mọc ra từ những nóc nhà của một dẫy phố bình dị. Các cấu trúc quân sự vô thần, bị bỏ rơi, cực kỳ quân phiệt nhưng với mục đích mơ hồ, được lắp ráp như từ các mảnh vỡ vụn trong một tâm trí điên loạn. Đôi khi chúng giống như những vũ khí khổng lồ, bị đè nặng bởi một logic hoàn toàn không thể hiểu. Và đôi lúc chúng như là nạn nhân của một kiến trúc điên rồ cuồng tín, như thể chúng ta đang thoáng thấy chúng ở khoảnh khắc cuối cùng trước khi chúng sụp đổ, khi biết chắc rằng cơn gió nhẹ tiếp theo sẽ san bằng chúng thành cát bụi. Nhìn vào chúng, tôi không thể nào tưởng tượng một trí óc sáng tạo như Lebbeus Woods đã hiện hữu trên đời.

Lebbeus Woods, Shard House (Nhà Vụn), từ dự án triển lãm “San Francisco: Inhabiting the Quake” (San Francisco: Nhập thân với Động Đất) (1995).

Ngôn từ không giúp ích gì được.

Tôi chưa bao giờ thấy bất cứ cái gì giống như những mô hình kiến trúc này.

Tôi mở một trang sổ ghi chép trên máy tính và bắt đầu viết. “Quay về Trái đất: Định nghĩa Mới về Sự Tàn phá.” Tôi tìm thấy một trang web có đăng một số bài viết của Woods, cảnh báo rằng thảm họa thế gian đang luôn diễn ra, nhưng úp mở, và tương đối. Thảm họa không bao giờ xuất hiện toàn diện, mà luôn biểu lộ từng phần.

Tôi có cảm giác không hẳn là Woods biết nhiều hơn một số người khác đang cố tìm cách giải quyết các vấn đề tương tự, mà là ông biết những điều ông biết theo một cách khác, một cách khắc nghiệt hơn, từ sự tiên tri thực tiễn lúc hạt nhân nguyên tử vẫn còn nguyên vẹn ở tâm điểm một vụ nổ khủng khiếp. Sự giải thích của Woods rất khác, khác biệt triệt để so với những gì chúng ta đã thu thập được từ trước đến nay về Sự Tàn phá.

Tôi lập tức gọi cho người bạn thân nhất của tôi, Barbara Epler[2], hỏi liệu cô có biết gì về Woods không? Có, cô ta trả lời, em thậm chí còn biết cả vợ ông ấy, hiện giờ là bà quả phụ Lebbeus Woods. Barbara đề nghị cô có thể giới thiệu tôi với bà Woods nếu tôi muốn.

Vài ngày sau chúng tôi cùng nhau đến khu phố Tài Chính của Wall Street để tôi gặp Aleksandra Wagner, góa phụ của ông Woods, hiện vẫn cư ngụ trong căn nhà thuê mà cả hai đã chung sống lúc ông chưa mất.

Trong sự phấn khích của mình, tôi hầu như không thể trình bày điều tôi đang muốn khai phá, hoặc nói rõ lý do về chuyến thăm của tôi. Thật ra tôi không thể trình bày lý do của mình bởi vì tôi không có một khái niệm rõ rệt nào cả. Điều đó thực sự là gì?

Để tìm hiểu thêm về thiên tài đã không được nhiều người trong chúng ta biết đến. Thiên tài của Manhattan. Tôi thậm chí không dám thốt ra điều này, ngay cả trước mặt Barbara bạn tôi. Nhưng đó chính là điều tôi nghĩ về ông từ nay trở đi: Lebbeus Woods là thiên tài của Manhattan.

Và tất nhiên tôi học được thêm nhiều điều khác. Rằng ông ấy thích uống rượu. Rằng ông ấy cũng có một lộ trình riêng lúc sinh thời, một lộ trình hình chữ nhật, Aleksandra nói, bao gồm, chẳng hạn, chỗ ở của hai người, trường mỹ thuật Cooper Union, nơi ông ấy đã giảng dạy, và xem nào, sau đó, Aleksandra nói, trầm tư, cửa hàng cung cấp các dụng cụ nghệ thuật trên Đại lộ số Ba (Third Avenue), nơi ông ấy mua những quyển sổ phác hoạ, và sau đó là một quán bar, nơi ông ấy làm việc thường xuyên từ ba đến năm giờ chiều, bởi các quán rượu thường yên tĩnh vào thời điểm đó.

Và ngoài ra, tôi hỏi, đồ uống yêu thích của ông ấy là gì, ông ấy thích uống gì ở quán bar đó?

Trên hết, vodka. Và ở nhà, chủ yếu là champagne.

Vậy thì, tôi suy ngẫm, hiện giờ tôi có ba thiên tài nghiện rượu, mỗi người trong số họ đều có lộ trình riêng của mình ở Manhattan. Woods, Melville, Lowry.

Lạy Chúa, tôi đang đi đúng đường.


[1] Thành lập vào năm 1971, MOMA PS1 là một trong những trung tâm nghệ thuật hiện đại lớn nhất và cũng lâu đời nhất tại Hoa Kỳ, nổi tiếng qua nhiều dự án trưng bày các ý tưởng đột phá và thực hành thử nghiệm của những nghệ sĩ mới nổi tiếng cũng như đã được công nhận. Toạ lạc ở Long Island City, Queens, MOMA PS1 là chi nhánh của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (Museum of Modern Art – MOMA) ở Manhattan.

[2] Barbara Epler là chủ biên và giám đốc của New Directions, một nhà xuất bản lâu đời và nhiều uy tín ở Hoa kỳ, có trụ sở ở thành phố Nữu Ước, đã xuất bản nhiều tác phẩm được dịch ra Anh ngữ của Krasznahorkai.

(Nguồn : damau.org)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục