
– I –
Ngày xưa ở vùng bể có một ông đồ tục danh là ông đồ Bể.
Đừng tưởng cái tên đồ Bể ấy chỉ có nghĩa là một ông đồ ở vùng bể. Bể đây là rộng như bể, ý nói tâm và trí ông đồ rộng như biển cả.
Thời còn nhỏ, đó là một cậu học trò chăm chỉ, thông minh, và ngay thẳng, rất được thầy yêu mến và anh em bạn kính phục.
Năm hăm bốn tuổi ông vác lều chiếu đeo khăn gói ra Thăng-long thi hương. Kể thì ông đã đủ tài ứng thí từ hai khoa trước rồi. Hiềm nỗi nhà nghèo không xoay được tiền ăn đường, ông đành phải ở nhà dạy học cố để dành lấy vài chục quan làm khoản lộ phí. Vì thế mãi năm nay ông mới ra thi.
Một hôm ông vào nghỉ chân uống nước ở cái quán cạnh một tòa miếu cổ. Bà hàng dặn ông khi qua miếu phải bỏ nón, cúi đầu vì đức thánh ngài thiêng lắm. Ông mỉm cười đáp:
– Trời nắng chang chang thế này mà bỏ nón ra nhỡ bị cảm thì khốn!
Bà hàng mắt lấm lét nhìn ông:
– Chả khốn bằng bị ngài vật chết.
Ông đồ thản nhiên hỏi lại:
– Vậy ngài đã vật ai chưa?
Bà hàng hạ giọng thì thầm, kể cho ông đồ nghe những phép thiêng của ông thần. Rồi nói tiếp:
– Chừng như thầy khóa mang lều chiếu đi thi. Vậy thầy nên mua vàng hương vào miếu lạy thánh mà cầu phúc, thì thế nào cũng được tên chiếm bảng vàng.
Ông đồ Bể nghiêm sắc mặt, khảng khái đáp:
– Học thành tài rồi, tất thi đậu, mà chưa thành tài thì đợi đến khoa sau thi lại. Người quân tử không bao giờ chịu đi cầu khấn, lậy lục ai để được đỗ.
Dứt lời, trả tiền nước, đứng dậy đi liền.
Tới miếu, ông đồ dừng lại ngắm nghía cây đa cỗi, cành lá rườm rà che gần kín cái mái rêu phong. Hai bên cửa miếu, hai pho tượng đắp bằng đất, mặt đỏ, mắt trợn tròn như nhìn chòng chọc khách qua đường, và tay cầm thanh gươm giơ lên như lăm le muốn chém ai. Bên đường một cái mốc đá với hai chữ « HẠ-MÃ » nét khắc đã mờ.
Ông đồ Bể nghĩ thầm:
« Biển để hạ mã, nhưng ta có cưỡi ngựa đâu mà bảo xuống ngựa. Còn như ngả nón cúi đầu thì không thấy có yết thị. Vậy ta cứ đường hoàng dõng dạc mà đi. Người quân tử đầu đội trời chân đạp đất, không kiêu ngạo với ai, nhưng không khúm núm sợ ai. »
Và ông đồ ung dung tiến qua miếu.
Vừa đi khỏi mươi bước, nghe có tiếng động sau lưng ông quay lại. Một người y phục từa tựa như ông, và cũng vai mang lều chiếu tay xách khăn gói. Ông ngạc nhiên hỏi:
– Tiên sinh ra kinh kỳ ứng thí?
Người kia đáp:
– Thưa vâng.
– Tiên sinh đi đường nào tới mà vừa giờ tôi không gặp tiên sinh ở quán.
– Tôi ở miếu ra.
Người ấy nói thực. Vì đó chính là ông thần hiện thành hình một thầy khóa đi thi. Ông đồ hỏi:
– Tiên sinh vào miếu làm gì thế?
– Tôi vào lễ đức thánh để cầu khẩn ngài phù hộ cho được đỗ… cao. Vì ngài thiêng lắm ai cầu gì được nấy, mà ai vô lễ với ngài thế nào cũng sẽ bị ngài vật chết.
Đó là lời đe dọa của ông thần. Nhưng ông đồ ngay thẳng vô tình không lưu ý tới. Ông còn thật thà hỏi một câu mà thần cho là có ý nghĩa khiêu khích:
– Âm dương cách biệt, ngài làm thế nào mà quật chết được người trần?
– Ngài đã có phép chứ.
Rồi ông thần ngập ngừng, nói tiếp:
– Ban nãy tôi đứng trong miếu nhìn ra thấy tiên sinh hình như đi qua miếu không bỏ nón cúi đầu.
– Vâng, chính thế. Tôi tưởng thế cũng không phải là khiếm lễ với thần. Trời nắng thì phải đội nón. Còn như cái đầu nó đương thẳng thắn ở trên cái cổ can chi lại nghiêng nó đi, lại cúi nó xuống. Chỉ những kẻ hèn hạ, không biết tự trọng hay không chính trực, quang minh mới khúm núm sợ hãi mà thôi.
Ông thần mỉm cười, mỉa mai:
– Vậy hẳn là ngài chính trực, quang minh?
Nhưng ông đồ không tức giận và thản nhiên đáp:
– Tôi chỉ biết bình sinh không nói dối một câu, chưa bao giờ định làm một việc phi pháp, còn như có chính trực, quang minh hay không, thì quả tôi không dám khoe khoang rằng tôi chính trực, quang minh.
Ông thần thầm nhủ: « Được rồi! mi bảo mi không từng nói dối, không bao giờ làm việc phi pháp. Vậy ta sẽ theo mi để chờ cho mi nói dối một câu, hay làm một việc phi pháp, bấy giờ ta sẽ trị tội mi, ta sẽ quật mi chết tươi, cho hồn mi không còn oán hận ta được nữa, không còn đến kiện ta ở trước cửa tòa Diêm Vương được nữa.»
Ông thần nghĩ thế rồi thân mật bảo ông đồ:
– Bác tính ở đời ai mà không nhỡ có khi nói dối một câu.. vô hại.
– Có lẽ vì không biết hay vì vô tình mà sai lầm, chứ người quân tử không bao giờ lại có ý nói dối, dù câu nói dối của mình không có hại hay chỉ là một câu đùa bỡn để làm vui cho chúng bạn.
Ông thần đổi chuyện, hỏi:
– Chắc hẳn bác đã học thuộc hết bộ tứ-thư và kinh, sử.
Ông đồ thành thực và nhún nhường đáp:
– Người học giả nào dám tự phụ rằng mình đã học thuộc hết tứ-thư, kinh, sử. Vì trong đó còn có biết bao nhiêu điển tích mình không hiểu, còn có biết bao nhiêu ý nghĩa tinh vi mình chưa nhận xét được.
Ông thần ngầm phục tính thẳng thắn của kẻ thù, nhưng lòng càng căm tức. Lúc ấy ông đồ kêu khát nước và rướn nhìn phía xa xem bên đường có cái hàng quán nào không. Ông thần cười nói:
– Giá bây giờ có mía mà ăn vài tấm nhỉ?
– Thôi, còn phải nói!
Giữa lúc ấy, vừa đi khỏi rặng tre, hai người thấy một vườn mía hiện ra. Đó là một phép lạ của ông thần, nhưng ông đồ vô tình biết đâu mà để phòng lòng nham hiểm của bạn cùng đường. Vì thế ông thần vừa rủ để xuống vườn mía, ông đồ nghe theo ngay.
Nhưng ông không theo ông thần rút dao chặt mía. Ông chỉ cất tiếng hai ba lần gọi to:
– Ông chủ vườn mía!… có ai đấy không, ra bán mía?
Ông thần cười hỏi:
– Bác gọi người ta làm gì thế?
– Để mua mía.
– Vẽ! ăn một vài cây cho khỏi khát rồi đi. Ai biết đấy là đâu. Vả trong vườn mía có tới hàng nghìn hàng vạn cây, mình ăn một hai cây có thấm thía gì.
Ông đồ ôn tồn đáp:
– Lấy của người khác tức là làm điều phi pháp. Không ai trông thấy nhưng lương tâm mình biết và không để mình yên. Còn như bác bảo vườn mía có nhiều gốc, thì được thế là nhờ ở công trồng trọt của người ta chứ có phải tự nhiên nó mọc lên như cỏ đâu…
Nghĩ ngợi một lát ông lại nói:
– Nhưng chúng ta cứ việc ăn, tôi đã có cách.
Ông thần nửa mừng, nửa lo, mừng vì thấy kẻ thù đã trúng kế mình, lo vì thấy hắn bảo đã có cách. Ông tự nhủ: « Thử xem cách ấy là cách gì?» …
Ăn xong hai cây mía, ông đồ mở khăn gói lấy mười sáu đồng tiền buộc vào cái cọc giậu và nói như phân vua.
– Ban nãy tôi mua sáu đồng một cây. Bây giờ tôi trả quá lên tám đồng, sợ ở đây người ta bán đắt hơn chăng.
Nghe nói, ông thần tái mặt đi, đành cũng lặng thinh lấy tiền làm theo bạn đồng hành. Nhưng ông bày ngay ra một mưu khác và nghĩ thầm: « Nó đã muốn thế thì ta cho nó hết tiền, vì chắc anh đồ ngông nghênh và kiết xác này chả có được bao nhiêu. Cái kế của ta nhà binh gọi là: « tương kế tựu kế.»
Liền hóa phép ra một vườn dưa bở chín và thơm tho. Rồi rủ ông đồ xuống ăn. Nhưng ông kia từ chối:
– Xin mời bác cứ tự tiện. Còn tôi, tôi chỉ có một số tiền nhỏ mọn đủ để ăn trọ ở kinh đô trong một tháng, tôi không dám phung phí quá độ.
Thế là mưu kế của ông thần lại hỏng.
Trời chiều. Đường vắng. Tiếng chuông chùa buồn gieo trong yên lặng. Ông thần vờ lo lắng bảo ông đồ:
– Trời gần tối rồi mà quanh đây không có làng mạc hàng quán, chúng ta biết làm sao đây?
Ông đồ bình tĩnh trả lời:
– Ta cứ đi một quãng nữa xem có nơi nào, chúng ta sẽ xin vào ngủ trọ. Bằng không thì chúng ta dựng lều bên đường ngủ tạm một đêm phỏng đã sao?
Vừa nói dứt lời thì ở xa xa đã thấy lập lòe một tia lửa đỏ. Ông thần nói:
– Có lẽ đó là một cái quán.
Quả thực đó là một cái quán mà ông thần đã dùng phép thiêng dựng lên trong khoảnh khắc. Hai người đến gọi cửa. Hai thiếu nữ xinh đẹp ra đón tiếp. Ông thần mỉm cười nói trêu ghẹo:
– Chào hai cô mình! Hai cô mình ở đây có một mình thôi ư?
Cô chị nhí nhảnh đáp:
– Chả hai mình là gì!
Bọn họ làm thế để cốt dử cho ông đồ chính trực, quang minh cũng chớt nhả làm theo. Nhưng ông đồ chỉ lễ phép hỏi:
– Thưa hai cô, bà chủ hay ông chủ quán đâu, chúng tôi muốn ngủ trọ một đêm.
Cô em liếc mắt đưa tình:
– Chính chúng em là hai cô chủ quán. Thầy chúng em mất rồi. Còn mẹ chúng em thì bỏ chúng em đây để đi tái giá.
Ông đồ buồn rầu nói:
– Thế thì chúng tôi lấy làm tiếc rằng không thể ngủ trọ hàng hai cô được.
– Tại sao?
– Vì không là vợ chồng thì một người đàn ông trẻ tuổi không thể ngủ cùng nhà với một người con gái xinh đẹp được.
Nói đoạn, ông đồ giương lều nằm ngủ ở trước cổng để mặc ông thần vào trong quán trọ của hai người thiếu nữ.
Sáng hôm sau ông đồ dậy sớm thu xếp lều chiếu gói lại. Ông vui sướng nghe chim muông ca ríu rít trên cành cây tươi xanh. Và tức cảnh ông vịnh một bài thơ tứ tuyệt. Lòng ông lâng lâng thanh thoát không gợn chút hình ảnh hai người gái đẹp tối hôm qua. Trả tiền cơm nước xong, hai người lại lên đường. Ông thần càng căm tức vì nỗi không sao đưa được kẻ thù vào tròng. Nhưng ông càng niềm nở và thân mật.
Và ông xoay kế khác: «Ta không giết được nó về tội nói dối hay về tội làm điều phi pháp thì ta sẽ giết nó về cái tính bất cần và hấp tấp không chịu suy nghĩ vậy.»
Thần liền hóa phép ra một cái giếng khơi. Giữa trưa, trời nắng gắt, ai chẳng khát nước, và gặp giếng mát, nước trong, ai chẳng vui thích muốn uống! Nhưng giếng sâu quá mà miệng giếng lại nhỏ quá, không sao thò tay múc tới nước được.
Dù thế mặc lòng, ông thần cũng lấy bát gỗ ra, rồi theo thành giếng leo xuống. Uống xong, ông ta lại leo lên một cách dễ dàng nhanh nhẹn ; vì ông ta là thần, có nhiều phép lạ nên không thể trượt chân ngã được.
Đến lượt ông đồ Bể. Ông đứng tì thành giếng ngó xuống đáy nước. Và ông nói:
– Bác thực có tài! Chứ giếng sâu thế này thì tôi xin chịu, không thể nào xuống được.
Gần đấy, hai người lực điền đang tát nước bằng chiếc gầu dây. Ông đồ liền chạy lại mượn, rồi thả gầu xuống múc nước uống. Lúc hết khát, ông đồ mới kịp nhận thấy ở trong gầu có một nén vàng, tia sáng chiếu lên chói lòe cả mắt. Ông giơ lên hỏi:
– Cái gì thế này?
Ông thần ghé lại nhìn:
– Dễ vàng! Phải, đích vàng rồi. Số bác được của! Trời cho bác đấy! Nên gói vào khăn để khi nào thi đỗ xong dùng mà làm tiệc ăn mừng.
Ông đồ lắc đầu:
– Vàng này không phải của tôi, khi nào tôi lại lấy như thế!
– Nhưng vàng ấy không phải của ai, thì bác bắt được nó là của bác.
– Biết đâu rằng không phải vàng của thần giếng. Vì vàng nặng tất chìm. Thế mà đây vàng nổi trên mặt nước, đủ rõ rằng đó không phải là vàng của người dương thế.
Nói đoạn, ông đồ cất tiếng hô lớn:
– Ngươi là vật sở hữu của ai, bản thân ngươi là gì, phải hiện nguyên hình mà về với chủ ngươi.
Tức thì, một con rắn vàng quẫy mạnh nhảy từ lòng gầu xuống đáy giếng. Nén vàng đã biến mất.
– I I –
Chiều hôm ấy hai người tới kinh đô. Ông thần rủ ông đồ đến trọ ở một hàng cơm phố hàng Trống cho được gần trường thi. Về mùa thi cử ở phố nào cũng có hàng cơm, và nhiều nhà thường đổi thành khách sạn.
Vừa đến nơi ông đồ đã nghe thấy các thầy khóa bàn tán:
– Năm nay lão đốc Sơn-Nam chủ khảo.
– Thế thì nguy to rồi.
– Thôi anh em mình đành mang hận trở về.
– Lão ta làm chủ khảo thì tôi nhất định không thèm thi.
Ông đồ Bể hỏi:
– Sao quan đốc học Sơn-Nam làm chánh chủ khảo, tiên sinh lại bỏ thi?
Người kia giọng gắt gỏng:
– Vì lão ta ăn tiền dữ lắm. Đút lót lão thì đỗ, không đút lót lão thì dẫu có tài cũng bằng thừa. Như thế còn thi với cử làm gì?
Ông đồ Bể suy nghĩ rồi đáp:
– Thiết tưởng thánh thượng đã định kén chọn nhân tài thì tất phải giao việc ấy cho những bầy tôi xứng đáng. Tôi sợ tiên sinh ngờ oan cho quan chánh chủ khảo chăng?
– Oan gì! Còn ai lạ cái tính xiểm mị và ăn hối lộ của lão đốc học già ấy. Lão ta tuy đỗ Trạng đấy, nhưng lão ta lại Trạng cả về khoa đục khoét nữa.
Câu nói khôi hài làm gian phòng trọ vang động tiếng cười. Không còn ai thèm giấu giếm, kiêng nể nữa ; lòng công phẫn của các thí sinh đã nghiễm nhiên trở nên ầm ỹ và ồn ào.
Cơm nước xong, ông thần rủ ông đồ đi dạo chơi các phố. Lần đầu tiên ông đồ tới kinh đô, song những thứ được xem ông đã đọc qua trong các pho sách Tàu mà mấy người bạn học giàu có cho ông mượn, nên ông không lấy làm kỳ dị lắm và không trầm trồ khen ngợi như nhiều người nhà quê mới bước chân đến một nơi thành thị náo nhiệt lộng lẫy. Thấy thế, ông thần liền hỏi một câu để được bắt quả tang ông đồ nói dối:
– Chắc bác đã nhiều lần đến kinh đô?
– Không, lần này là lần đầu tôi lai kinh ứng thí.
– Nhưng các hàng hóa bày bán ở các phố, chắc bác đã được coi nhiều lần rồi?
– Không, lần này là lần thứ nhất tôi nhìn thấy. Nhưng tôi đã được thấy tả trong các pho sách Tàu mà người ta cho tôi mượn.
Tới một phố vắng, ông thần ghé gần lại thì thầm bảo ông đồ:
– Tôi có một câu chuyện tâm sự muốn ngỏ cùng bác.
Ông đồ nhún nhường đáp:
– Vậy xin bác cho nghe, may ra tôi sẽ được một bài học về khoa xử thế.
– Chỉ sợ bác cho là quá đường đột.
– Thưa bác, tôi đâu dám, xin bác cứ chỉ giáo cho.
Giọng nói của ông thần càng nhỏ hơn:
– Tôi thấy bác là người có tài lỗi lạc mà càng ngày tôi càng thêm kính mến. Có học lực, có thông minh như bác thì phải đỗ, mà phải đỗ cao nếu không đỗ đầu. Nhưng xem tình hình khoa này và nghe những lời phẩm bình viên chánh chủ khảo thì dẫu làm văn hay như rồng bay phượng múa mà không đút lót cũng khó lòng đỗ được.
Ông đồ ngắt lời, nói gạt:
– Đó là họ phỏng đoán cả, chứ đấng thiên tử là bực minh quân thì các quan tất phải là các bực lương quan, thanh liêm và chính trực. Đâu lại có chuyện ăn tiền ăn lễ như lời họ đồn?
Ông thần mỉm cười:
– Bác ạ, thế gian chẳng ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai. Lão đốc ấy tôi xem ra có vẻ gian giảo thực đấy.
Ông đồ buồn rầu đáp:
– Nếu quả có thế thì đành chờ khoa sau vậy, chứ biết sao?
Ông thần lắc đầu:
– Tôi thì tôi nghĩ khác. Tuổi trẻ của người ta chỉ có một thời. Rồi người ta già yếu, trí tuệ mòn mỏi dần dần. Bác vì nhà nghèo mà khoa này mới ứng thí được kể đã muộn lắm rồi. Đáng lẽ bác phải chiếm bảng vàng ngay từ một, hai khoa trước. Vậy chẳng lẽ chỉ vì sự bất công của một viên chánh chủ khảo thiếu lương tâm mà mình chịu để mai một đại danh của mình, mà mình chịu để phí mất cái tuổi trẻ quý báu của mình ư!
Rồi ghé sát tai ông đồ, ông thần thì thào:
– Chẳng nói giấu gì bác, nhờ trời nhà tôi giàu có. Tôi đã đem theo đây bốn nén vàng để phòng khi gặp phải ông chánh chủ khảo có máu tham đồng, đổi trắng thay đen, thì sẽ tùy cơ ứng biến. Đây bác cầm lấy hai nén rồi ngay đêm nay chúng ta cùng nhau tìm vào nơi nhà riêng của viên đốc học.
Ông đồ Bể từ chối, nói thà rằng không đỗ chứ nhất định không chịu đút lót, lễ lạc để mất cả phẩm giá con người.
Đến đây ông thần mới tỉnh ngộ và hiểu rằng không có cách gì, không thể dùng mưu thần chước quỷ nào trị nổi một người chính trực, quang minh như ông đồ Bể được.
Lòng thù ghét của ông thần đối với ông đồ vụt đổi ra lòng cảm phục. Từ nay ông sẽ cứ ở luôn bên mình ông đồ như trước, nhưng để ủng hộ chứ không phải để hãm hại nữa.
Vì thế, ông đồ Bể vào lọt được bốn kỳ cũng là nhờ ở sức giúp đỡ của ông thần. Kỳ nào chấm đến bài của ông đồ Bể, ông chánh chủ khảo cũng nhận thấy văn chương lỗi lạc đáng được phê ưu. Nhưng ông nghĩ thầm: «Thằng này cậy có tài không thèm biết đến ta. Vậy ta thử phê liệt cho nó hỏng tuột xem nó có còn chỉ cậy ở văn tài và học lực được nữa không!» Và ông mỉm cười chấm son thong thả viết chữ « liệt » đỏ rất lo, rồi khinh bỉ vứt quyển thi sang một bên. Điều ông không ngờ tới, là chữ « liệt » của ông chỉ là chữ « ưu »: ông thần đã đưa tay ông viết chữ nọ hóa ra chữ kia mà ông vẫn không biết.
Thế rồi, xong bốn kỳ thi, ông đồ Bể đậu thủ khoa. Thành thử cái người mà ông chánh chủ khảo định để đỗ đầu phải trụt xuống thứ nhì. Chính ông cùng không hiểu tại sao. Ông đành thở dài trả lại người ấy hai mươi nén bạc trong số năm mươi nén mà người ấy đã khấn ông để mua cho bằng được cái hương khôi.
Ông đồ Bể thẳng thắn tự nhủ: « Đấy, ta đã bảo các quan trường công minh mà! Quả có sai đâu! »
Hôm xướng danh, thiên hạ nô nức đi xem. Các cô thiếu nữ Long- thành chen vai thích cánh để được thấy mặt ông thủ khoa. Nhưng ông này không để ý tới một cô nào, tiến thẳng lại chỗ các quan trường, vái dài rồi vội vàng lĩnh lấy mũ áo vua ban ra đi.
*
Sợ món tiền lộ phí thiếu hụt nếu ông còn dềnh dàng ở lại xem các nơi danh thắng chốn đế đô, ngay hôm ấy ông tân khoa trở về làng.
Khi qua miếu cổ, ông thần ra đón tiếp:
– Chào ông cống mới.
Ông thủ khoa đoán chừng người bạn cùng đường đã lạc đệ nên lủi mất ngay từ hôm nghe tin mình trúng cử. Liền an ủi mấy câu:
– Thi cử chẳng qua ăn nhau về số mệnh. Thôi thì khoa này chẳng đậu bác chờ khoa sau… Có tài như bác, lo gì!
Ông thần cười, nói:
– Lần đầu tiên bác nói dối đấy nhé. Bác thừa biết rằng phải có tài lỗi lạc như bác mới đáng đỗ sao bác còn đem câu khách sáo về số mệnh ra an ủi tôi?
Ông thủ khoa cũng cười. Ông thần lại nói:
– Nhưng nay dù bác có nói dối một câu vô tội với người hỏng thi để người ấy khỏi mủi lòng, tôi cũng không tìm cách trị tội bác đâu. Vì nay bác đã trở nên một bạn chí thân của tôi rồi.
Ông thủ khoa ngơ ngác không hiểu. Ông thần liền đem hết chuyện thực ra kể, từ hôm ông đồ qua miếu không ngả nón cúi đầu cho tới hôm ông trúng cử. Nói xong, ông thần biến mất.
Ông thủ khoa buồn rầu thầm nghĩ: « Thì ra nhờ có thần, mình mới đỗ. Như thế, cái thủ khoa của mình phỏng còn giá trị gì!»
Ý nghĩ ấy vẫn lẩn quẩn trong óc ông khi ông lủi thủi về tới đầu làng. Vì thế, thấy dân làng tấp nập mang cờ, mang lọng ra đón rước, ông xua tay nói:
– Xin mời các ông về cho. Tôi chẳng đỗ đạt gì cả mà rước xách. Tôi vẫn là ông đồ Bể như xưa thôi, các ông ạ.
Ai nấy kinh ngạc không hiểu và nhất định ép ông tân khoa ngồi lên võng. Xem chừng không từ chối nổi, ông thủ khoa đành phân trần:
– Tôi đỗ là nhờ ở một sự mắn may, một sự bất công, nên thế nào rồi tôi cũng phải dâng sớ tâu lên đức hoàng thượng để xin ngài đánh hỏng tuột cái thủ khoa của tôi đi để tránh khỏi một sự man trá do một vị hung thần bày ra. Vậy nếu các ông có yêu tôi mà cho tôi ngồi võng để khiêng tôi về thì tôi xin vâng. Còn nói to tát rằng đón rước một ông thủ khoa thì quả thực tôi không dám nhận.
Dân làng cho là ông tân khoa quá nhún nhường nên cũng tuân theo mà hạ cờ im trống, rước ông về nơi nhà tranh chật hẹp.
Mẹ già ông nghe tin ông đỗ đã đi vay tiền bà con mua một con bò, hai con lợn, chục thúng gạo tẻ, dăm thúng gạo nếp, chờ con về thì làm tiệc ăn khao. Nhưng ông thủ khoa khóc lạy mẹ xin hãy để cho thong thả.
Rồi lập tức ông lấy giấy bút thảo một tờ sớ tâu lên thiên tử, kể hết đầu đuôi việc gặp thần và được thần giúp. Sau cùng ông xin hoàng thượng xuống chiếu tiêu hủy cái thủ khoa gian lận của ông đi.
Nhận được sớ của ông thủ khoa, vua và các quan trong triều đều kinh ngạc. Vua cho đó là một sự rất lạ, rất hiếm ở chốn nhân gian: một người được chấm đỗ đầu rồi còn dâng sớ khiếu oan, kêu rằng mình thực không đáng đỗ mà bỗng được người ta cho đỗ oan. Một quan ngự sử quỳ tâu:
– Kẻ hạ thần đồ rằng viên thủ khoa mắc chứng điên.
Vua cười, phán:
– Hơn hết là đem các bài thi của hắn ra duyệt lại.
Khi một viên hàn lâm tốt giọng đã lần lượt đọc hết bốn bài văn, kinh nghĩa, thơ, phú và văn sách của thủ khoa thì hoàng thượng trầm trồ khen ngợi:
– Văn bài ấy quả thực đáng phê ưu.
Ngài liền cầm các bài văn đọc lại một lượt nữa. Và vì thế ngài trông thấy bốn chữ « ƯU» của viên chánh chủ khảo bên những chữ bình của các viên sơ khảo, phúc khảo. Ngài cảm động nghĩ thầm: « Viên đốc học Sơn-đông thực là một người tôi hiền. Không có hắn thì ta đã mất một vị thủ khoa có học vấn uyên thâm.»
Ngài liền xuống chiếu cất viên đốc học Sơn-Nam lên chức học bộ thượng thư, và ban lệnh cho đòi viên thủ khoa Bể đến triều bệ kiến.
Mười hôm sau, một người quần nâu áo nâu đi đất tiến đến cửa ngọ môn. Nghe người ấy xưng danh là ông đồ Bể vừa nhận được chiếu chỉ vời vào triều bệ kiến, quân lính không tin và đến trình các quan để các quan tâu lên thiên tử. Thiên tử nghe tâu cười ngất, truyền cho dẫn người kỳ dị kia vào hầu.
Ngắm vẻ mặt khôi ngô và nghe lời biện bạch thâm thúy, vua hiểu ngay rằng đó là một bậc chân tài. Ngài liền phán:
– Sao mũ áo trẫm ban cho, ngươi không dùng?
Ông thủ khoa quỳ tâu:
– Dạ, kẻ hạ thần có đem theo để nộp lên thánh thượng, vì kẻ hạ thần tự xét không xứng đáng với phẩm phục của triều đình.
Dứt lời liền mở khăn gói lấy mũ áo kính cẩn dâng lên.
Vua cười:
– Trẫm đã xét lại văn bài của ngươi rồi, ngươi thực đáng đậu thủ khoa. Vậy trẫm cho phép nhà ngươi hãy vào nhà trong sửa sang mũ ảo chỉnh tề rồi ra đợi lệnh.
Đại đanh của ông thủ khoa đồn khắp kinh thành và đến tận tai hoàng hậu. Hoàng hậu liền vời vào nội cung để xem mặt. Rồi sau khi ban thuởng một chén rượu thọ, Ngài truyền thủ khoa thuật lại câu chuyện gặp thần mà thủ khoa có nói sơ trong bản văn dâng lên thiên tử.
Thủ khoa không quen uống rượu nên mới nhấp một chén đã chuếnh choáng, nóng bừng mặt. Vì thế ông không còn đủ sáng suốt để giữ gìn, đem hết sự thực ra kể. Tới đoạn viên chủ khảo định hạ bút phê liệt, chữ «liệt» lại hóa ra chữ «ưu», hoàng hậu chau mày nói:
– Tên chủ khảo gian trá đến bậc ấy mà sao Thiên tử lại làm cất hắn lên chức học bộ thượng thư?
Hoàng hậu bèn truyền thủ khoa theo đến trước mặt Thiên tử và kể lại câu chuyện thi cử để ngài nghe. Lúc bấy giờ ông thủ khoa đã tỉnh rượu nhưng không dám giấu diếm một điều gì, vì đã trót một lần thuật hết sự thực.
Vua nổi cơn thịnh nộ, tức thì xuống lệnh đòi viên thượng thư bộ học đến trước ngai rồng mà mắng rằng:
– Trẫm giao cho nhà ngươi cái trọng trách kén nhân tài, ai ngờ ngươi chỉ tưởng đến ăn lễ chứ không nghĩ gì đến sự phó thác ân cần của trẫm. Như những bài văn của viên thủ khoa đây mà ngươi định phê liệt thì thật ngươi không còn coi ai ra gì nữa. Tội khi quân này đáng lẽ phải xử trảm, nay trẫm hãy tạm giáng ngươi xuống chức huấn đạo cho ngươi ăn năn sửa mình.
Viên thượng thư sợ hãi mướt mồ hôi, cúi đầu đứng im thin thít vì không hiểu sao hoàng thượng lại đoán biết được ý nghĩ thầm kín của mình.
– III –
Mùa xuân năm sau ông thủ khoa Bể lại tới kinh đô thi hội và thi đình. Lần này ông y phục chỉnh tề, ung dung cưỡi con ngựa trắng vua ban, và không phải khệ nệ mang theo lều chiếu như ngày đi thi hương nữa. Nhưng cái khăn gói nâu cũ ông vẫn khoác bên vai. Vì ông vẫn nghèo như xưa, tuy đã đậu thủ khoa, nên không có tiền mướn tiểu đồng. Hôm ông vào bệ kiến, thiên tử ban vàng, ban lụa ông đều từ chối, nói chưa có công chức gì, ông không dám nhận tiền của nhà vua, vì tiền của nhà vua tức là tiền của quốc dân: phải làm việc cho quốc dân mới được phép nhận tiền của quốc dân. Đằng này ông tuy đổ thủ khoa cũng vẫn chỉ là một anh học trò cao đẳng, và vẫn ăn không ngồi rồi như mọi người ăn không ngồi rồi khác.
Câu trả lời hơi làm phật lòng hoàng thượng, vì cứ kể thì hoàng thượng cũng chẳng làm được việc gì ích lợi cho dân lắm mà vẫn thu thuế của dân để tiêu hoang tiêu hủy, lại còn thừa tiền ban phát cho kẻ khác nữa. Nhưng ông thủ khoa không hề nghĩ thế ; ông cho công việc của đức vua bao giờ cũng nặng nhọc, khó khăn nhất trong nước, vì đức vua là người cao nhất, tài giỏi nhất trong nước.
Đến trước tòa miếu cổ, ông thủ khoa xuống ngựa cho đúng với chữ « hạ mã » để trên mốc đá. Vả lại, ông đã có lòng kính mến ông thần. Ông kính mến ông thần không phải vì ông thần đã giúp cho ông đỗ thủ khoa: Ông cho rằng dù ông thần không giúp mà viên chủ khảo công bình không ăn lễ đút lót thì thế nào ông chả đỗ đầu! Ông kính mến ông thần là vì ông phục lòng hào hiệp của một kẻ thù quân tử: thù ghét ông, ông thần đã không vật chết ông ngay mà còn chờ khi ông phạm tội mới dám hạ thủ. Như thế, kể cũng là một ông thần anh hùng.
Ông vừa xuống ngựa định vào miếu thì ông thần đã hiện lên chắp tay vái ông:
– Kính chào ông hai lần thủ khoa.
Ông thủ khoa Bể đáp lễ rồi ngạc nhiên hỏi:
– Sao lại hai lần thủ khoa?
– Vì đỗ đầu rồi, bác còn lai kinh ứng thí lần nữa mà vẫn đỗ đầu.
Cả hai cùng cười. Ông thần lại chắp tay vái:
– Thôi xin chúc bác thượng lộ bình an. Khi nào đỗ Trạng tôi sẽ thân mang lễ đến mừng.
Dứt lời, thần lại biến đi.
Ông thủ khoa Bể tới kinh đô, thi hội xong thi đình, quả nhiên đỗ trạng nguyên.
Hoàng thượng ban yến. Lúc các ông tân khoa đương ngồi dự tiệc, bỗng một người đến trước ngọ môn xin vào bệ kiến, nói có việc rất quan trọng. Vua cho vào.
Người ấy tới nơi. Ông trạng Bể sửng sốt đứng dậy, rồi quỳ tâu:
– Muôn tâu bệ hạ, người này chính là thần miếu cổ, trong câu chuyện « liệt, ưu ».
Vua cười phán hỏi ông thần:
– Ngươi xin bệ kiến có mục đích gì?
– Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần đến dâng lời kính mừng bệ hạ đã kén được những vị tân khoa có chân tài. Hạ thần lại xin bệ hạ cho phép hạ thần được tặng ông bạn trạng nguyên một vật kỷ niệm.
Vừa nói vừa giơ ra một cái nhẫn kim cương nạm trong bạch kim. Rồi lại nói:
– Muôn tâu bệ hạ, nhẫn này có một đức tính rất lạ. Là đeo nó vào ngón tay thì không ai nói dối mình được một câu. Vì hễ ai nói dối thì mình thấy viên kim cương trong sáng này vẩn đục ngay như tro. Còn nếu chính mình mà cố ý nói dối thì nhẫn sẽ bay đi không trở về nữa.
Vua đỡ lấy cái nhẫn kỳ dị ngắm nghía. Lúc ngài ngửng lên thì ông thần đã biến mất. Ngài liền thân đeo nhẫn vào ngón tay út trạng nguyên vì nhẫn rất nhỏ.
Rồi ngài phán hỏi:
– Cớ sao thần miếu cổ lại tặng khanh cái nhẫn ấy?
– Muôn tâu bệ hạ vì hạ thần suốt đời chưa từng nói dối một câu. Nguyên trước thần miếu cổ là kẻ thù của hạ thần, chỉ rình hạ thần nói dối một câu là vật chết.
Vua cười nói tiếp:
– Nhưng vì khanh không nói dối nên hắn không làm gì nổi, phải không?
– Dạ, muôn tâu bệ hạ.
Muốn thử phép thiêng của nhẫn thần vua hỏi một vị tiến sĩ trẻ tuổi:
– Khanh đã có vợ chưa?
Ông tiến sĩ biết rằng công chúa Liên-Hương tài sắc hoàn toàn vả ông ta lại đương có tà tâm bỏ vợ tào khang, liền sung sướng quỳ tâu:
– Muôn tâu thánh thượng, kẻ hạ thần vì nhà nghèo nên chưa dám nghĩ đến đường gia thất.
Vua quay sang phía trạng nguyên, cười phán:
– Khanh giơ nhẫn ta xem.
Quả nhiên mặt kim cương đương sáng bỗng sạm lại như màu tro. Vua phá lên cười. Và các ông tân khoa đã chuếnh choáng hơi men cũng cất tiếng cười theo.
– Thế là khanh nói dối rồi nhé!
Ông tân khoa bẽn lẽn, mặt đỏ lên, rồi tái đi, rồi cũng sạm theo màu tro như mặt nhẫn.
Vua lại hỏi trạng nguyên:
– Còn trạng nguyên thì hẳn cũng đã có vợ rồi?
Trạng thẳng thắn đáp:
– Muôn tâu bệ hạ, chưa ạ.
Vừa nói vừa giơ nhẫn ra. Mặt nhẫn đã trở lại trong sáng như trước. Vua cười:
– Khanh làm thế là thừa, vì nếu khanh nói dối thì nhẫn đã bay đi mất rồi còn đâu.
Buổi chiều, các ông tân khoa lại được hoàng thượng và hoàng hậu vời vào dự yến trong nội cung một lần nữa. Trong tiệc yến này có cả công chúa Liên-Hương và các nàng công chúa khác. Để các công chúa ngồi dự tiệc với các ông tân khoa, đó là một điều hiếm có ở các triều đình Á-đông. Nhưng trong truyện này, hoàng hậu và hoàng thượng ưa những sự giản dị, thẳng thắn, không bắt các công chúa xinh đẹp phải cấm cung.
Đương khi yến ẩm, các nàng công chúa tâu với hoàng hậu truyền trạng nguyên đưa cho xem chiếc nhẫn thần. Hoàng thượng phán:
– Các con muốn xem nhẫn thần đều phải tuyên bố câu này: « Trong đời con, con chưa từng nói dối bao giờ.»
Các nàng công chúa lần lượt vâng lệnh. Nhưng sau mỗi câu tuyên bố, hoàng thượng và hoàng hậu lại phá lên cười vì thấy mặt nhẫn của trạng nguyên vẩn đục.
Đến lượt công chúa Liên-Hương, nàng khép nép thưa rằng:
– Muôn tâu vương phụ, vương mẫu, con xin phép đổi và thêm bớt vài chữ trong câu tuyên bố có được không?
Hoàng thượng mỉm cười đáp:
– Được!
Công chúa liền tâu:
– Trong đời con, một đôi khi con cũng có nói dối, nhưng toàn là những câu nói dối vô hại, hoặc vì phép xã giao, hoặc vì lòng nhân đạo.
Sau khi nhận thấy mặt nhẫn thần vẫn sáng hoàng hậu ban lời ngợi khen lòng thành thực và tính ngay thẳng của công chúa Liên-Hương. Rồi hoàng thượng truyền trạng nguyên đưa nhẫn cho công chúa xem.
Ông trạng Bể tâu:
– Muôn tâu thánh thượng và hoàng hậu, câu tuyên bố của công chúa Liên-Hương tỏ rằng công chúa là một thiếu nữ thông minh, lịch thiệp và nhân từ. Vậy hạ thần xin phép thánh thượng và hoàng hậu được kính tặng công chúa cái nhẫn thần này.
Vừa nói vừa tháo nhẫn dâng lên vua. Vua trao cho hoàng hậu, hoàng hậu mỉm cười đeo vừa khít vào ngón tay giữa của công chúa Liên-Hương vì bàn tay công chúa rất bé nhỏ, xinh xắn.
Công chúa Liên-Hương sung sướng đỏ mặt, đứng dậy bẽn lẽn nói:
– Tôi xin cảm ơn ông trạng nguyên.
Hoàng thượng cười nhìn công chúa:
– Con nên tặng lại trạng nguyên một vật kỷ niệm chứ?
Công chúa Liên-Hương liền lấy chiếc khăn hồng nhờ vua cha trao cho ông trạng Bể mà nói rằng:
– Chiếc khăn này chính tay tôi thêu lấy, xin kính tặng ông trạng nguyên.
Chẳng nói, các bạn độc giả của tôi cũng đoán biết rằng ông trạng Bể sẽ lấy công chúa Liên- Hương.
Và công chúa Liên-Hương sẽ là một người vợ hiền, vì suốt đời sẽ không dám nói dối chồng một câu, sợ nhẫn thần bay đi mất.
(1939)
(Nguồn : vietnamthuquan.eu)




cảm ơn admin đã chia sẻ truyện hay
ThíchĐã thích bởi 1 người
Được đăng bởi norah | Tháng Chín 10, 2025, 9:33 chiều