//
you're reading...
Du Lịch, Tìm Hiểu, Triệu Phong, Về Huế, về Lịch Sử

Con đường cái quan xưa giữa Huế – Đà Nẵng theo miêu tả của người Âu * Triệu Phong

Theo miêu tả của những người Âu có mặt tại nước ta vào thời vua chúa, đoạn đường cái quan từ Huế đến Đà Nẵng mà Tây gọi là “Đèo Mây,” tức “Col des Nuages” chỉ là một đoạn của con đường dài nối liền mọi miền chạy từ Bắc đến Nam. Nó có sẵn từ thuở xa xưa, trước cả khi người Pháp có mặt ở Đông Dương.

Vốn chỉ là một lối đi nhỏ hẹp, thô sơ, đứt đoạn ở những nơi có dòng nước chảy qua, con đường này thường đi men theo bờ biển, nhưng khi gặp núi thì thẳng lên đến những chỗ cao nhất thay vì tránh những chướng ngại bằng cách đi vòng cho dễ vượt qua, hoặc uốn khúc để giảm dốc. Đường cái quan ngày xưa chỉ là một con đường mòn không hơn không kém, rộng hẹp tùy khúc, tùy theo nhu cầu; ví dụ ở những đoạn đi ngang thị trấn, làng mạc, chợ búa thì được mở rộng hơn vì lưu lượng người đi lại nhiều, xe ngựa, xe bò thường xuyên chạy qua. Hơn nữa, phương tiện di chuyển của dân ta ngày xưa phần lớn là bằng đôi chân, sang hơn thì bằng ngựa hoặc võng nên việc làm một con đường chắc chắn như đường cho xe chạy chỉ vừa tốn của mà còn tốn công bảo trì thường xuyên nữa. Con đường này nhờ được luôn cải tiến nên vấn đề di chuyển tương đối dễ dàng, tuy nhiên ở đoạn băng qua đèo Hải Vân lại thật khó đi vì thời bấy giờ do kỹ thuật quá thô sơ nên đoạn này triều đình hầu như để mặc.

Năm 1893, Marcel Monier trong một chuyến đi bằng đường bộ từ Tourane (tên Tây gọi cho Đà Nẵng) ra Huế, đã tường thuật đoạn đi vòng theo vịnh Đà Nẵng đến chân đèo Hải Vân như sau: “Con đường cái quan, một con đường không giống bất kỳ một con đường nào khác. Bị đắp cao từng chặng, chặng thì toàn cát, chặng thì con đường mòn uốn vặn vòng vèo quanh các khối đá sụt lở, qua các hố bùn cắt ngang ruộng. Ra khỏi Tourane, con đường lẫn với cát sỏi trong một đoạn dài hai mươi cây số.” Ông này mô tả đến những vất vả khi phải di chuyển trên cát phản chiếu chói lòa dưới ánh nắng chói chang; ở những khe nước, nhánh sông khi thủy triều xuống để lộ ra toàn đất bùn, hoặc cả một vùng nước mênh mông khi thủy triều lên nhưng không có cầu để vượt qua.

Trên đoạn đường cái quan giữa Huế và Đà Nẵng này, triều đình Huế cho đặt các trạm để nghỉ chân, chuyển tiếp công văn cũng như đổi phu gánh võng. Đây là đoạn đường quan trọng vì nó nối liền kinh đô Huế với cảng Đà Nẵng, nơi tàu thuyền các nước cập bến để từ đó sứ thần của họ có thể ra Huế triều kiến với vua nước ta; đồng thời còn là gạch nối với Hội An (Faifo), một thương điếm quốc tế mà nhiều thế kỷ trước, các Chúa Nguyễn đã dành riêng cho người ngoại quốc ra vào buôn bán.

Từ Huế vào đến vịnh Đà Nẵng có các trạm như sau:

  1. Kinh Trạm. Nằm ở khu Ninh Mật bên trong Thành Nội, gần cửa Đông Nam, tức Vọng Lâu 8 (Tây gọi là Mirador 8). Từ điểm này đến trạm kế là An Nông về hướng Nam, khoảng cách là 33 lý (theo từ điển Génibrel, 1 lý bằng 888 mét).
  2. An Nông Trạm. Thuộc địa phận làng An Nông, huyện Phú Lộc. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), trạm được cải danh thành Đức Nông, sang năm sau lại đổi thành Thừa Nông (nay gọi là Cầu Hai). Từ An Nông đến trạm kế cận mất 35 lý.
  3. Cao Đôi Trạm. Thuộc làng Cao Đôi, huyện Phú Lộc. Cũng như An Nông, trạm này đổi tên thành Đức Cao vào năm Minh Mạng thứ ba, rồi sang năm sau thành Thừa Hòa.
  4. Ô Kiên Kiên Trạm. Từ Cao Đôi đến đây khoảng cách là 21 lý, trạm này nằm ở làng Trung Kiên, huyện Phú Lộc. Từ năm Minh Mạng thứ ba rồi tiếp năm sau trạm cũng đổi tên lần lượt thành Đức Thọ và Thừa Lưu (Nước Mặn). Tên sau này vẫn được dùng đến ngày nay. Tiếp tục từ đây đến trạm kế, đoạn đường dài 22 lý.
  5. Phước Yên Trạm. Ở làng An Cư, huyện Phú Lộc; cải danh thành Đức Phước, rồi Thừa Phước vào thời gian như những trạm trên. Từ Thừa Phước (Lăng Cô) đến Nam Sơn tức trạm kế thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam, phải vượt qua đèo Hải Vân trên đoạn đường dài 19 lý.
  6. Ô Nam Sơn Trạm. Không có nhiều dữ liệu về trạm này, chỉ được biết đây là trạm cuối trước khi đến Đà Nẵng, nằm ở dưới chân đèo Hải Vân.
Công việc chuyển công văn hoặc giao cho lính trạm hay phụ trạm chạy bộ phụ trách, hoặc giao cho mã thượng là phu trạm đi bằng ngựa.

Hầu hết các làng có đặt trạm đều mang hai tên và các trạm suốt đoạn Huế – Đà Nẵng có tên bắt đầu bằng chữ Thừa, kể từ đời Minh Mạng thứ tư, như Thừa Nông, Thừa Hòa, Thừa Lưu, và Thừa Phước. Công việc của trạm là gánh võng đưa các quan cần di chuyển xa, cùng khiêng vác đồ dùng của những vị ấy. Ngoài ra còn phụ trách việc chuyển tiếp giấy tờ của triều đình, nhất là công văn khẩn. Qua đó ta có thể hiểu việc của trạm là vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hóa, công văn hỏa tốc. Văn thư khẩn được đựng trong một ống tre gọi là ống công văn, hai đầu buộc dây và niêm phong bằng một dấu niêm nhựa cây hoặc sáp; công việc chuyển công văn hoặc giao cho lính trạm hay phụ trạm chạy bộ phụ trách, hoặc giao cho mã thượng là phu trạm đi bằng ngựa, nếu tuyến đường có sông núi gập ghềnh.

Vào năm Gia Long thứ ba (1804), trạm mới bắt đầu được đặt dọc theo tuyến đường này. Đứng đầu trạm có một Cai đội (tương đương một đại đội trưởng) và một Phó đội làm phụ tá để coi sóc các phu trạm trong việc thu tin và vận chuyển. Số phu trong mỗi trạm thường là từ 50 đến 100. Sang đến năm Minh Mạng thứ tám (1829), chức Cai đội và Phó đội bị bãi bỏ và thay thế bằng Đích Thừa và Đích Mục; nói chung chỉ có danh xưng là thay đổi, ngoài ra các chức năng đều như cũ. Vào thời kỳ nay mỗi trạm có ba con ngựa dùng để chuyển công văn hỏa tốc; đồng thời nguyên tắc luật lệ về dịch vụ của trạm được hoàn thiện và hệ thống trạm được đặt dưới quyền điều động của Bộ Binh.

Vào khoảng 1885, C. Paris, một nhân viên bưu chính và viễn thông Pháp phụ trách việc thiết lập đường dây điện tín Huế – Đà Nẵng, đầu tiên mở cuộc khảo sát đường cái quan này.

Trong phần tường trình khi trở về, ông miêu tả trạm là nơi dành cho khách vãng lai ghé chân nghỉ ngơi. Mái trạm lợp ngói, có hào và tường vây quanh, bốn góc có ụ quan sát. Lối vào là hai cửa đối xứng giữa hai tường song song nhưng một cửa bị bít lại bằng cây; đáng chú ý là suốt 6 trạm từ Huế đến Đà Nẵng đều như vậy cả. Chung quanh trạm người ta trồng đậu phụng và khoai lang. Phục dịch trạm gồm một số phu và nhà nho trong vùng; được phân chia đủ công việc như khuân vác, canh gát, chạy công văn bằng chân và bằng ngựa, nuôi giữ ngựa, thư lại và cai trạm. Họ được miễn thuế, miễn đi lính, và được lãnh khẩu phần cơm mỗi ngày. Nghe đâu họ còn được thêm tiền lương tháng là 10 tiền. Triều đình còn cấp phát đất để họ canh tác, thường họ trồng khoai và làm ruộng. Họ phải luôn luôn túc trực sẵn để chờ gọi nhận việc bất kể ngày hay đêm. Viên thư lại trông coi cắt đặt công việc cho phu trạm tuần tự theo phiên.

Nói chung suốt từ cả mấy trăm năm, muốn về đến kinh đô cả bằng đường bộ lẫn đường thủy đều rất phiền phức. Từ Đà Nẵng đi thuyền mất từ 6 đến 8 tiếng, trong khi nếu đi bộ theo những lối mòn cheo leo thì mất từ 2 đến 3 ngày. Đối với phương tiện sau, du khách chọn một trong ba cách để di chuyển: bộ, ngựa, hoặc võng mà thường thì võng được chọn nhiều nhất.

Theo H. Cosserat trong bài “La Route Mandarine de Tourane à Hué,” đăng trong tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué, không có một tài liệu xưa nào của người Việt khả dĩ cho biết đến tình trạng của con đường cái quan giữa Huế với Đà Nẵng trước khi người Pháp đặt chân đến Việt Nam nên ông chỉ miêu tả lại nó dựa theo những bút ký của một số người Âu đã từng đi qua. Họ là những nhà truyền giáo, thương nhân, du khách, đại diện những công ty thương mại, sứ thần, sĩ quan phục vụ cho Nam Triều.

Tuy Birdwood trong “Rapport on the Miscellaneous Old Record at the India Office,” dù không có bằng chứng nhưng cho rằng vào khoảng 1540 người Bồ đã thiết lập giao thương với “Xứ Đàng Trong,” người ta cũng được biết rằng, Fernand Perez từng cập bến ở đây vào năm 1516, và d’Albuquerque có phái Duarte Coelho đến nơi này năm 1524. Cosserat chỉ nêu một số người Âu đã từng đi qua con đường cái quan giữa Huế và Đà Nẵng dựa vào chứng tích ghi trong bút ký của họ theo thứ tự như sau:

  1. Tháng 10, 1695: Thomas Bowyear (người Anh)
  2. Tháng 8, 1749: Pierre Poivre (Pháp)
  3. Tháng 11, 1819: Thuyền trưởng Rey (Pháp)
  4. Tháng 10, 1822: Crawfurd (Anh)
  5. Tháng 4, 1863: Đô đốc Bonard cùng Đại tá Palanca Guttierez, Đặc mệnh Toàn quyền Pháp và Tây Ban Nha ở triều đình Huế.
  6. Tháng 10, 1876: Dutreuil de Rhins (Pháp)
  7. Tháng 10, 1885 và những năm kế tiếp: C. Paris (Pháp)
  8. Tháng 3, 1895: Marcel Monier (Pháp)
  9. Tháng 3, 1897: Paul Doumer, Toàn quyền Đông Dương (Pháp)

Ngày 4 Tháng 10, 1695, Thomas Bowyear khởi hành từ Hội An, ông đi men theo đường biển ra Huế. Theo Cosserat thì sau khi vượt qua được dãy núi Hải Vân và đến Lăng Cô, Bowyear đi tiếp dọc biển đến tận cửa Tư Hiền, nơi đầm Cầu Hai thông ra thay vì đi theo con đường ngắn hơn nhưng bị cấm đi (Bowyear không nói rõ vì lý do gì bị cấm và bắt đầu ở chặng nào). Năm mươi bốn năm sau, Pierre Poivre cũng đi theo lộ trình này, cũng gặp phải đường cấm ấy sau khi vượt qua đèo Hải Vân; ta có thể thấy ngay rằng chặng ấy là khoảng từ Lăng Cô đến Cầu Hai, đến đây phải xuống thuyền để đi vào Huế.

Bản đồ kế hoạch đường sắt của Đại úy Debay dựa theo bản đồ Huế – Tourane (Đà Nẵng) thuộc Sở Địa Dư Đông Dương. Ấn bản tháng 11, 1899. Đường cái quan đoạn Huế – Đà Nẵng, từ kinh thành băng qua sông Hương, đi về hướng đông nam, ngang qua Truồi, đầm Cầu Hai vào đến Lăng Cô, trước khi lên đèo Hải Vân.

Pierre Poivre, nhân viên đại diện công ty thương mãi Pháp ở Ấn Độ, du hành đến xứ Đàng Trong với sứ mệnh xin mở giao thương và thiết lập chi nhánh của công ty; đồng thời để phá thế độc quyền mua bán các đồ gia vị như quế, tiêu, gừng, đinh hương của người Hòa Lan.

Ông ghé Việt Nam năm 1749 và trong thời gian lưu lại ngắn ngủi, ông từng có bốn lần đi đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế và ngược lại. Ở một cuộc hành trình từ Huế vào Đà Nẵng cho thấy đoạn đầu thường là bằng đường thủy; ông khởi hành từ sông Hương vào giữa trưa ngày 13 tháng 12, Poivre xuôi dòng ra đến Thuận An rồi rẽ hướng Đông Nam, dọc theo phá Tam Giang vào đến đầm Cầu Hai lúc tảng sáng ngày hôm sau. Ở làng Dô (cửa Tư Hiền), sau khi kiếm được người khuân vác, Poivre đi bộ dọc biển đến làng An Cư (Lăng Cô) vào đêm cùng ngày. Sang ngày 15, ông qua phá Lăng Cô lúc hửng sáng và leo đèo Hải Vân mất hết bảy tiếng đồng hồ. Như vậy ông xuống đến làng Nam Sơn khoảng 1, 2 giờ chiều và nghỉ tại đây. Ngày 16, ông băng qua “eo Hành” bằng thuyền rồi dừng lại ở cửa sông Cu Đê và ngủ qua đêm ở Nam Ô hoặc Liên Chiểu. Ngày 17, ông lại đi tiếp vào Hội An và đến nơi vào trời tối.

Cảnh cày ruộng ở vùng phụ cận Huế.

Như vậy Poivre đã đi hơn 100 giờ sau khi khởi hành từ Huế. Nếu ông không đi Hội An mà đi thẳng vào Đà Nẵng thì lợi được hai ngày vì từ Nam Sơn ông có thể xuống thuyền lúc 2, 3 giờ chiều ngày 15 để vượt vịnh Tourane và vào đến Đà Nẵng khoảng lúc 5, 6 giờ chiều.

Vào năm 1819, Thuyền trưởng Rey của chiếc Henry từ Bordeaux mới ghé lại Nam Kỳ lần thứ hai (lần đầu vào năm 1817) và thực hiện một chuyến đi Huế vào Đà Nẵng bằng đường cái quan. Tình trạng con đường ra sao, sửa sang được gì khi Thuyền trưởng Rey đi qua kể từ chuyến đi của Poivre 60 năm về trước tiếc rằng không có thông tin đầy đủ, ngoại trừ những tài liệu từ Đại Nam Chánh Biên Thực Lục và Đại Nam Nhất Thống Chí.

Theo hai tài liệu này thì vảo năm thứ tám triều Gia Long (1809), con đường cái quan từ bến Tràng Tiền vào đến đèo Hải Vân được cho cải tiến. Đoạn này dài 111 lý (1 lý bằng 888 mét); công việc gồm tu bổ mặt bằng con đường và mở rộng thành ba trượng (khoảng bốn mét cho mỗi trượng), do cư dân trong tỉnh đảm trách, dưới sự giám sát của hai ông Hoàng Đức và Lê Chất. Đồng thời hai bên đường được trồng thêm một số cây tuyển chọn nhưng nhiều nhất là cây mù u.

Sông đào An Cựu.

Cây này tiếng Hán gọi là Nam Mai Mộc, thường được dùng làm cọc chèo và thanh gỗ ngang của thuyền bè. Mù u được dân ta dùng nhiều để trị ghẻ và vết thương, làm xà phòng. Theo ông Cosserat, việc trồng mù u ở hai bên đường không phải là không có chủ ý, dân An Nam từ xa xưa vốn bị nhiều bệnh ngoài da, nhất là ghẻ lở, khó lòng trừ khử mặc dù sự hướng dẫn về vệ sinh thời ấy được truyền bá khá nhiều. Trái mù u cho một thứ dầu trị được ghẻ rất hiệu quả, vua Gia Long và những vua kế vị khi ban lệnh trồng cây chắc hẳn muốn dân gian luôn có sẵn thuốc để trị cái thứ bịnh ngoài da ấy, còn gì tiện lợi và kinh tế hơn!

Từ Rey đến Crawfurd khi ông này thực hiện chuyến đi đường bộ vào năm 1822 như đã nghe tả trong phần trước, ta có thể thấy rằng đoạn đường cấm không còn nữa. Khách bộ hành có thể đi từ Cầu Hai vào đến Lăng Cô bằng lối thung lũng Thừa Lưu, và kết thúc ở An Cư (Lăng Cô), nói tóm lại là đi trọn đường vạch hiện nay của đường cái quan. Nhiều trạm được đặt thêm rải rác dọc theo quốc lộ để khách bộ hành có nơi nghỉ chân, phu phen đổi phiên… Cách tổ chức trạm tuy đơn sơ nhưng tiện lợi, thích hợp với tập quán và nhu cầu của đất nước, thích hợp với những kẻ vì công việc phải di chuyển trên con đường cái quan bằng những phương tiện thô sơ thuở ấy; do vậy trạm mới tồn tại được qua các triều đại, qua bao nhiêu đổi thay.

Rey và Crawfurd có nhắc đến những am miếu họ thấy ở dọc hai bên đường, đúng ra chúng toàn là những am nhỏ bên trong người ta dâng đồ cúng và vàng mã, ngoài ra họ còn đề cập đến hình thức thờ cúng tương tự ở các khối đá nơi những đoạn đường băng qua núi. Thuyền trưởng Rey thuật ở chặng ông qua đèo Hải Vân: “Trong khi lên núi chúng tôi thấy có nhiều dấu chân voi rừng, chúng tôi vượt qua những suối nước đang chảy đổ ra biển, và rồi lên đến đỉnh vào lúc một giờ trưa. Gần như suốt thời gian leo trèo, chúng tôi chú ý thấy những khối đá tảng mà trên ấy có những hòn đá sỏi dằn lên giữ cho những tờ giấy vàng mã khỏi bị bay mất. Tôi được biết đó là những lễ vật của phu chuyên chở cầu xin thần linh phù hộ cho việc qua đèo được tai qua nạn khỏi, mà cũng của những kẻ sợ ma quỉ cúng kiếng để hy vọng khỏi bị ma nhát.

Hầu như không chừa một đèo nào, lối đi cheo leo nào, ghềnh suối nào, tảng đá chắn ngang sông hoặc trồi lên trên mặt nước nào mà con người xứ An Nam không cho là do thần linh bày ra để ngăn trở cũng có, mà giúp cho người vượt qua được dễ dàng cũng có. Họ dâng cúng những nơi ấy để cầu xin phù hộ hoặc để tạ ơn. Theo L. Cadière trong bài “Le Culte des Pierres,” đăng trong tập san Viễn Đông Bác Cổ thì cái hiểm nguy ghê gớm nhất mà người ta gặp phải ở núi rừng là cọp nên người An Nam thờ thêm cọp như thần hổ hoặc luôn cả thần cưỡi cọp với hy vọng xua đuổi được cọp. Họ còn tin trong rừng thiêng nước độc có ma mọi hay thần rừng, vì muốn bảo vệ lâm sản có thể bắt người ta phát bệnh lên sốt mà chết.

Crawfurd thuật như sau: “Gần chỗ chúng tôi vừa băng qua, trên đỉnh núi cao và trong khoảng thâm sâu của khu rừng, có một cây cột bên trên gắn một tấm bảng gỗ có hình một khuôn mặt trông thật ghê rợn, bên dưới có ghi một hàng chữ. Theo người đồng hành bản xứ thì những chữ đó là câu thần chú mà câu này phối hợp với bức vẽ có tác dụng xua đuổi ác ma thường quấy nhiễu nơi vùng này. Y còn cho chúng tôi biết rằng nếu đi đông hoặc khi trời tốt thì không phải sợ nếu đi lẻ tẻ, đặc biệt là phụ nữ thì dễ gặp tà ma. Chúng lộng nhất những khi tối trời hoặc khi mưa to gió lớn.”

André Salles chụp cảnh phu gánh thuê đang leo các bậc đá dẫn lên cổng Đà Nẵng tại lũy phòng thủ Hải Vân, ngày 1 tháng Ba, 1898.

Crawfurd ghi nhận nhiệt độ ở đỉnh đèo Hải Vân lúc ông vừa lên đến là 76 độ F tức 25 độ C, trong khi ở dưới đồng bằng là 83 độ F, tức 28 độ C. Đỉnh đèo có độ cao 1600 bộ (khoảng 488 m), nhưng thực ra dãy núi Hải Vân có nhiều chỗ cao hơn nhiều mà nơi cao nhất là 4000 bộ tức khoảng 1220 m. Crawfurd cho biết gần đỉnh đèo có một làng nhỏ, sạch sẽ mà cũng vừa là một cái chợ nữa. Hàng quán nơi đây bán các thứ như chè, gạo cùng những thứ linh tinh khác. Khách du lịch có cả đàn bà và trẻ con, họ đi tay không, không vũ khí, không tùy tùng mà cũng không có vẻ sợ sệt gì. Crawfurd cho đây là một điểm son đáng ghi nhận về mặt an ninh đối với chính quyền xứ An Nam.

Cũng như hai người trước đây là Rey và Poivre, Crawfurd đã đi từ Huế vào Đà Nẵng mất khoảng 55 giờ. Theo Cosserat, sau Crawfurd hai năm, có ông Diard cũng từng đi trên lộ trình này nhưng suốt từ đó (1824) bẵng đi rất lâu không có tài liệu nào cho thấy còn người Âu Châu nào khác đã đi qua con đường cái quan ngoại trừ những vị thừa sai ở trong xứ từ lâu. Đây một phần là do chính sách bài ngoại công khai của vua Minh Mạng.

Năm 1876, Dutreuils de Rhins, trưởng một trong năm chiếc tàu chạy bằng hơi nước mà Pháp tặng cho triều đình Huế, làm một chuyến du hành bằng đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế theo sự triệu vời của một thượng thư An Nam. Ông ta được cung cấp võng cùng phu gánh hành lý để đi đường. Câu chuyện của ông này kể lại về chuyến đi thật khá lý thú. Năm giờ sáng ngày 7 tháng Mười, tàu của Dutreuils cập vào làng Thanh Bình để chuẩn bị khởi hành. Đoàn tùy tùng mỗi người được cấp bốn phu gánh võng, ngoài ra cả đoàn có thêm mười phu gánh thức ăn, cộng thêm người làm thông ngôn nâng tổng số cả đoàn lên đến 65 hoặc 70 người. Trong đoàn có một tay thợ máy ví quá mập nên thật khó mà nằm vừa một chiếc võng nào. Họ nghỉ chân ở làng Nam Ô nơi có một bót lính Tây biệt phái từ đồn Tourane rồi sau đó tiếp tục lên đường bằng cách xuống phà để qua sông Cu Đê. Họ đi bộ đến 11 giờ rưỡi trưa thì tạm nghỉ ở một chòi lá ọp ẹp bên đường vì nắng quá gay gắt. Gia chủ mời khách nghỉ trưa trên chiếc giường tre và gối kê cũng bằng tre luôn.

Đáng chú ý nhất ở đoạn này Dutreuils nói đến thứ nước ông được mời uống, đó là trà Huế mà theo ông là trà của dân nghèo, đây muốn nói nước chè Huế. Khách được uống bằng những bát đầy từ trên lò nóng hổi, sôi sùng sục. Theo Dutreuils, “trà Huế” khang khác với trà Tàu nhưng vẫn mang hương vị của trà mà lại không gắt. Một thứ nước uống tuyệt diệu của tỉnh nhà, một thứ nước tuyệt vời để giải khát có thể tìm thấy bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào mà giá thì rẻ mạt.

Dọc đường đi, Dutreuils ít nghe nhắc đến tên làng mà chỉ biết đến tên trạm viết bằng chữ Hán gắn trên cửa nhà.

Đường cái quan qua đèo Hải Vân thời gian Tây làm cho xe hơi.

Gần mỗi làng, trẻ con nhanh nhẩu chạy trước báo tin có đoàn rước đi qua làm bắn tung bụi mù, phụ nữ buông chày, ngưng hò hát để chạy núp sau mấy tấm liếp phên. Đoàn người dừng ở trạm Nam Sơn tức trạm đầu tiên từ Đà Nẵng và cách khoảng 20 cây số để đổi phu rồi tiếp tục đi lúc bốn giờ chiều. Bây giờ thì họ phải leo đèo Hải Vân và đến sáu giờ rưỡi thì họ lên đến Hải Vân Quan. Hải Vân Quan được xây thành lũy kiên cố từ năm Minh Mạng thứ bảy (1826), nằm chắn ngang bề rộng của đèo nối liền phần chân của hai đỉnh núi cao chừng năm trăm mét ở hai bên. Thành chắn ngang là một tường đá cắt có bốn cửa mở ra để đi thông qua phía bên kia; cửa giữa to rộng và đóng lại bằng hai cánh cửa sắt. Thành được canh gát bởi khoảng 50 lính cư ngụ trong khoảng bốn, năm chòi nằm gần nhau. Viên võ quan trưởng đồn hướng dẫn đoàn đến nghỉ qua đêm ở một làng gần đó. Căn nhà họ ngủ lại không có cửa, chủ nhân dùng một phên tre làm bình phong ngăn chận hổ. Họ thức dậy lúc 5 giờ sáng, dùng điểm tâm rồi bắt đầu xuống đèo và đến tám giờ rưỡi thì họ đã nhìn thấy đầm Lăng Cô ở bên dưới.

Đường cái quan đi qua một rừng kè.

Phái đoàn của Dutreuils dùng phà vượt qua đầm, ông ngước lui nhìn lại ngọn núi đồ sộ, ước ao rồi đây có con đường sắt chạy xuyên qua núi. Giấc mộng của ông biến thành sự thật vào năm 1906 khi người Pháp làm con đường sắt xuyên qua chín cái hầm dài tổng cộng 3.275 m. Họ đến trạm Lăng Cô đúng chín giờ sáng, đây vừa là một làng chài có khoảng năm, sáu trăm dân. Ở đây họ lại đổi phu và xin thay cái võng thứ ba cho người thợ máy mâp nhất vì mấy cái kia đều đã bị rách hết. Suốt đoạn đường từ đó đến đèo Phú Gia, đám phu phải hì hục bước trên cát bỏng dưới cơn nắng gay gắt. Sau khi nghỉ ở chân đèo, họ bắt đầu leo lên lúc hai giờ trưa, sang đến bên kia Dutreuils mới nhìn thấy bên dưới có con đường thật sự, rộng rãi, có bóng cây hai bên. Kế đó họ đi qua một làng lớn và dừng lại ở một trạm có tên Thừa Lưu. Sau khi đổi phu, họ vượt qua hai con sông rộng bằng những đoạn cầu gỗ, rồi đi tiếp và gặp đèo Phước Tượng, ở chặng này lúc xuống đến chân đèo, Dutreuils có dịp nhìn thấy người mã thượng đang phóng ngựa chạy ngược về phía mình. Tiếp đó, đoàn người băng qua thung lũng Cầu Hai và đến ngôi làng có cùng tên lúc sáu giờ chiều. Làng Cầu Hai có chừng ba ngàn dân, phần lớn làm nghề nông hoặc đánh cá. Ở đây Dutreuils được một người bạn từ Huế vào đón ra Huế bằng thuyền. Họ ngủ lại đến sáng thì Dutreuils tách đoàn mà đi thuyền với bạn, thuyền vào cửa sông Phú Cam ở nơi đổ ra đầm Cầu Hai. Khi gần đến Huế, sông trở nên khá hẹp, hai bên có nhiều nhà cửa, và cuối cùng họ đến cầu gỗ An Cựu (cầu được xây lại xi măng năm 1910, cùng thời thành lập nhà máy nước Huế) lúc ba giờ rưỡi chiều. Ở đây Dutreuils lên bờ để đi bộ đến nơi sứ bộ Pháp lúc bốn giờ chiều. Ông mô tả An Cựu là một ngôi làng xinh xắn, có chợ lớn với sạp hàng dày đặc ở trước cầu và dọc hai bên đường đi lên Huế.

Về sau Dutreuils có dịp khác đi ra Huế và có dịp đi nốt đoạn đường từ Cầu Hai ra Huế mà trước đây ông đã đi bằng thuyền. Ông tổng kết bài bút ký với lời chú rằng một người thường đi bộ từ Đà Nẵng ra đến Cầu Hai mất 16 tiếng (khoảng ba cây số / giờ), và thêm 11 giờ nữa từ Cầu Hai đến Huế (bốn cây số / giờ), tổng cộng vị chi là 27 tiếng cho suốt lộ trình, như vậy nhanh hơn những người trước đây.

Năm 1906, sự xuất hiện của đường sắt xuyên qua đèo Hải Vân khiến đường bộ để leo qua đèo dần dần bị bỏ hoang phế. Tình trạng này không biết sẽ đến đâu nếu không lật qua trang của kỹ nguyên xe hơi, khi chính quyền ý thức được sự tiện lợi và giá cả bình dân của phương tiện này nên mới xúc tiến thực hiện con đường đèo. Con đường cái quan một khi đã hoàn chỉnh thành một con đường để xe hơi có thể chạy được thì từ đó các trạm từ bao thế hệ khách đến khách đi náo nhiệt tấp nập, nay cũng chịu số phận bị chìm dần vào dĩ vãng.

Đường sắt từ Đà Nẵng ra Huế ở chặng cuối, từ cây số 96 đến 108 tức ga Huế.

Chính thức từ năm 1918, hai con đường song song, sắt và xe hơi, đã đưa khoảng cách giữa Huế vào Đà Nẵng rút ngắn từ hai đến ba ngày còn bốn tiếng đồng hồ, rồi hai tiếng. Một lần nữa, con đường ô tô quanh co qua đèo Hải Vân lại bị thất sủng như một cô gái giang hồ già nua.

________________

Tài liệu tham khảo

*** La Route Mandarine de Tourane à Hué của H. Cosserat đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hué, số tháng Giêng-Ba, 1920.

*** Le Service des P.T.T. en Indochine (des origins à 1940) của René Despierres, đăng trong BAVH số tháng Giêng và Hai, 1944.

(Đã đăng trong nhật báo Người Việt giai phẩm Xuân Quý tỵ 2013)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục