“Đích đến không phải là nơi bạn kết thúc chuyến đi mà đó là những rủi ro và những kỷ niệm bạn đã tạo ra trên suốt chặng đường.” – Penelope Riley





Theo cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu trong bài viết “India: In the Grip of Caste“, đăng trên Straits Times Press, năm 2013, Ấn Độ có hơn 400 ngôn ngữ bản địa, và trước khi người Anh đến cai trị và thống nhất họ bằng cách xây nên một mạng lưới đường sắt, họ là những nhóm người đa dạng, mỗi nhóm lại nằm dưới quyền một maharaja (hoàng tử), một sultan (quốc vương Hồi giáo) hay một nawab (lãnh đạo quý tộc).
Bởi tính đa dạng ngôn ngữ này, bạn không thể đứng ở Delhi mà nói chuyện được với hơn 40 phần trăm người dân cùng một lúc. (Delhi nằm trong vành đai nói tiếng Hindi của Ấn Độ; theo điều tra dân số năm 2011, 41 phần trăm dân số Ấn Độ là người nói tiếng Hindi như là bản ngữ. Người nói tiếng Hindi phi bản ngữ như người Punjab cũng hiểu tiếng Hindi). Nhiều ngôn ngữ – ví dụ như tiếng Tamil và tiếng Punjab – không có liên kết lịch sử nào, và người nói ngôn ngữ này sẽ không hiểu người nói ngôn ngữ kia. Nếu bạn nói tiếng Anh, 200 triệu trong số 1,2 tỷ người sẽ có thể hiểu bạn. Nếu bạn nói tiếng Hindi, bạn giao tiếp được với khoảng 500 triệu người. Nếu bạn nói tiếng Tamil, bạn chỉ có 60 triệu người hay cỡ đó hiểu mình. Đó là một cản trở lớn cho bất kỳ một thủ tướng nào ở Ấn Độ vì không một thủ tướng nào có thể nói được tất cả các ngôn ngữ.
Ấn Độ chưa bao giờ là một thực thể đồng nhất. Nó là một ý tưởng được người Anh nghĩ ra. Và bất chấp những nỗ lực to lớn của người Anh và những người Ấn theo chủ nghĩa dân tộc, Ấn Độ trong tư cách là một quốc gia vẫn là một ước ao hơn là một thực tế.
Sự phân mảnh được phản ánh trong hệ thống chính trị của Ấn Độ. Thủ tướng ở Delhi không thể yêu cầu các thủ hiến bang làm những gì trung ương muốn. Họ không phụ thuộc vào ông ta để được bổ nhiệm mà phụ thuộc vào phiếu bầu của người dân nơi mà họ đang cai trị.

Hệ thống đẳng cấp đối với Ấn Độ còn là một sự phức tạp hơn nữa. Nó cũng là một yếu tố then chốt khiến sự phát triển của quốc gia này bị trì trệ. Theo các luật lệ của hệ thống đẳng cấp, khi bạn kết hôn với người ở đẳng cấp thấp, tự động bạn sẽ mất đi đẳng cấp cũ của mình. Do đó, người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn (Bradmin) có xu hướng chỉ kết hôn với người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn, Vệ-xá (Vaishya) với Vệ-xá, tiện dân (Dalit) với tiện dân, vv…. Giả sử xã hội của bạn đột nhiên đặt ra một luật mới rằng những người tốt nghiệp đại học nếu kết hôn với những người không tốt nghiệp đại học thì sẽ tự động mất đi địa vị xã hội của mình, thì xã hội của bạn sẽ đi về đâu?
Khoảng 20 năm trước ông Lý Quang Diệu một lần nữa trở lại Ấn Độ, trên một chiếc xe đi từ Agra tới Delhi. Viên công chức cấp cao nhất ở Agra đi cùng tôi và tôi tận dụng cơ hội đó để thăm dò ông ta về hệ thống đẳng cấp. Tôi nói với ông ta, “Giả sử như tôi nói mình là một Bà-la-môn, liệu ông có tin tôi không?” Ông trả lời: “À, nếu ông có địa vị, của cải và cung cách của một Bà-la-môn, có lẽ tôi tin ông đấy. Nhưng nếu ông định cưới con gái tôi, thì tôi phải tiến hành tìm hiểu một cách kỹ lưỡng nhất.” Tôi hỏi tiếp làm thế nào để theo dấu một người ở một thành phố rộng lớn như Delhi. Ông đáp rằng Delhi không chỉ là một đám đông dân chúng – ông phải trú tại đâu đó và do đó ông có thể bị lần ra.
Những việc này đã xảy ra cách đây vài thập kỷ, nhưng mọi thứ không thay đổi mấy từ hồi đó. Ở những thành phố quốc tế nhất của Ấn Độ, như là Mumbai chẳng hạn, hệ thống đẳng cấp có lẽ yếu đi một chút. Nhưng nhìn khắp đất nước này, nhận thức về đẳng cấp rất ít bị suy giảm. Có thể phải mất vài thập kỷ hoặc thế kỷ chuyển đổi dần dần nữa trước khi Ấn Độ mới có thể tuyên bố mình đã thoát khỏi sự chi phối của hệ thống đẳng cấp. (*)
Vài phần của Ấn Độ sẽ phát triển nhanh hơn những phần khác, nhờ vào khu vực tư nhân tương đối mạnh mẽ. Mumbai là một vùng tăng trưởng chủ chốt. Bangalore cũng là một thành phố phát triển nhanh, một phần là vì các công ty như Infosys được dẫn dắt bởi những doanh nhân đẳng cấp thế giới như N. R. Narayana Murthy. Nhưng Infosys có thể tuyển dụng bao nhiêu lao động? Động lực này không tồn tại khắp đất nước Ấn Độ.
Có lẽ vì thiếu hụt tương đối các cơ hội, hoặc thất vọng khi đất nước họ không có khả năng đáp ứng những tiềm năng vì những trở ngại mang tính quan liêu nên nhiều người Ấn tài năng đã rời Ấn Độ đến những đồng cỏ xanh tươi hơn và không quay về nữa. Đây là một khác biệt quan trọng giữa người Ấn Độ và người Trung Quốc. Người Trung Quốc cũng đến Mỹ với một số lượng lớn, nhưng khá nhiều người quay lại Trung Quốc để bắt đầu kinh doanh. Có những cơ hội ở Trung Quốc có lẽ không tồn tại ở Ấn Độ. Nói một cach khác, Trung Quốc không phải chịu chảy máu chất xám tới mức như của Ấn Độ. Những người rời Ấn Độ là những cá nhân xuất sắc nhất. Họ điều hành vài tập đoàn lớn trên thế giới, như PepsiCo hay Deutsche Bank.
Cơ sở hạ tầng cũng là một lĩnh vực quan trọng nữa, nơi bất lợi của Ấn Độ lộ rõ. Đất nước này đã tạo một tiếng xấu là nơi bất tiện cho các nhà đầu tư vì nó không có sẵn một cơ sở hạ tầng vững chắc phục vụ kinh doanh như các cảng công-ten-nơ, đường sắt, sân bay, hạ tầng thông tin liên lạc và các thành phố đáng sống. Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản ở Trung Quốc muốn đa dạng hóa sự đặt cược của mình đã đến Ấn Độ với hi vọng lập nên một nhà máy hay một mỏ khai thác, chỉ để sửng sốt vì tình trạng nghèo nàn của cơ sở hạ tầng nơi đây. Làm sao mà chuyển hàng hóa vào được? Làm sao mà đưa sản phẩm ra đây? Chiều dài đường cao tốc của Trung Quốc tăng từ chưa đầy 100 km vào năm 1988 lên 74.000 km vào năm 2010, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Để so sánh thì Ấn Độ chỉ có 700 km. Chính phủ Ấn Độ hiện muốn chi 1 nghìn tỷ đô la Mỹ cho cơ sở hạ tầng trong năm năm tới. Nhưng ai sẽ xây dựng đây? Nếu là người Ấn xây thì sẽ tốn một thời gian rất dài đấy. Sẽ thực tế hơn khi mở thầu và cho phép người Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đến xây. Nếu điều này xảy ra, cơ sở hạ tầng có thể được xây xong trong bốn hoặc năm năm. Nhưng liệu Ấn Độ có làm thế không? Ấn Độ mắc kẹt trong những thực tế hầu như không thể nào thay đổi về thành phần dân cư trong nước và sự tồn tại dai dẳng của hệ thống đẳng cấp.
(Theo bài viết “Ấn Độ : Dưới vòng kim cô của hệ thống đẳng cấp – Lý Quang Diệu viết về Ấn Độ” đăng ở nghiencuuquocte.org)


Chế độ đẳng cấp Ấn Độ tồn tại như thế nào? – Shashi Tharoor (*)
Vào ngày 17 tháng 1, 2016, Rohith Vemula, một nghiên cứu sinh của Đại học Hyderabad bang Telangana Ấn Độ, đã treo cổ tự tử. Dù là trong một đất nước với 1,2 tỉ dân, nhưng một cái chết cũng đủ tạo sức ảnh hưởng lớn.
Vemula là người Dalit – tầng lớp từng bị coi là “không đáng đụng tới”, nằm dưới đáy trong chế độ đẳng cấp của Ấn Độ giáo. Anh cũng là hội trưởng Hội Sinh viên Ambedkar trường Đại học Hyderabad, với mục đích nâng cao quyền của người Dalit. Bằng cái chết của mình, Vemula đã có được những thứ mà chính anh hẳn chưa hề nghĩ đến: Anh trở thành một anh hùng dân tộc, bi kịch của anh biểu trưng cho sự tồn tại dai dẳng của chế độ đẳng cấp trong câu chuyện phát triển của Ấn Độ.
Không giống như chủng tộc, đẳng cấp không hiển thị rõ ràng: khuôn mặt của một người không cho biết đẳng cấp của họ. Nhưng nó lại có sức ảnh hưởng ghê gớm đối với xã hội Ấn Độ, hạn chế mọi cơ hội sẵn có trong suốt cuộc đời. Là người Dalit đồng nghĩa với việc phải chịu một sự phân biệt đối xử vô hình sẽ đeo bám người ta cả trong những tương tác thường ngày. Sự ra đi của Vemula đã nhắc nhở người dân Ấn Độ một lần nữa rằng hơn 300 triệu người thuộc tầng lớp thấp nhất, cùng với các “bộ tộc” hay thổ dân, vẫn đang phải đối mặt với nạn phân biệt, thành kiến, sự hà khắc và thậm chí là bạo lực trên mỗi nấc thang trên bậc thang xã hội.
Chắc chắn là chính phủ Ấn Độ đã có những nỗ lực đáng kể nhằm cải thiện tình hình. Chín ngày sau cái chết của Vemula, Ấn Độ đã tổ chức lễ kỷ niệm 66 năm ngày lập quốc, cố gắng chống lại sự phân tầng xã hội khắc nghiệt của đất nước bằng một chương trình bù đắp (cho người bị phân biệt đối xử) đầu tiên và toàn diện nhất trên thế giới. Những tầng lớp và bộ tộc này được đảm bảo không chỉ sự bình đẳng cơ hội, mà còn cả những kết quả tích cực, nhờ có những hạn ngạch được tuyển vào các cơ sở giáo dục, việc làm chính phủ, thậm chí cả hạn ngạch đại biểu trong quốc hội và nghị viện bang.
Những hạn ngạch hay “ưu đãi” này được đưa ra dựa trên nhân thân đẳng cấp (gần như bất biến). Đây là một bước nhỏ tiến tới bù đắp cho hàng triệu mảnh đời bất hạnh, những người đã phải hàng ngày gánh chịu sự bất công và bẽ bàng của những người “không đáng đụng tới”.
Trong suốt 66 năm qua, các chính trị gia đã luôn duy trì cam kết thực hiện một chương trình bù đắp. Mặc dù dự kiến sẽ kết thúc sau mười năm theo dự định ban đầu, các ưu đãi này đã được mở rộng thành 70 biện pháp, và chắc chắn sẽ được mở rộng hơn nữa khi được gia hạn thêm vào năm 2020. Những hạn ngạch này vẫn luôn là vấn đề gây tranh cãi của chính trị Ấn Độ; động đến vấn đề này có thể mang lại rủi ro (cho các chính trị gia).
Nhưng những người Dalit chỉ cảm thấy khá hơn một chút so với tổ tiên bất hạnh của họ. Thực tế, họ vẫn phải đi sau những tầng lớp cao hơn trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, từ bậc học giáo dục đến thu nhập gia đình.
Vemula được nhận vào trường đại học nhờ năng lực, không phải qua hệ thống ưu đãi. Nhưng anh vẫn phải đối mặt với những thành kiến về người Dalit. Anh đã để lại một bức tâm thư nói về sự phân biệt đối xử mà mình phải chịu đựng khi học trong một ngôi trường với bộ máy quản lý vô cảm và quan liêu. Sự sỉ nhục lớn nhất là khi khoản học bổng mà anh dùng để nuôi sống bản thân và người mẹ của mình bị cắt như là một hình phạt cho những hoạt động chính trị của mình. Thực tế, anh đã khiến bức thư của mình xúc động hơn khi yêu cầu phần tiền mà nhà trường đã nợ phải được trả về cho gia đình anh để trang trải các khoản nợ mà anh đã mắc phải trong thời gian bị cắt học bổng. Rõ ràng là việc ưu đãi các công việc nhà nước và các cơ hội học tập đại học không thể chấm dứt nạn phân biệt đẳng cấp.
Cái chết của Vemula đã làm dấy lên làn sóng biểu tình của công chúng, với những chính trị gia hàng đầu tập trung tới Hyderabad để góp tiếng nói của mình vào công cuộc phản kháng ngày càng mạnh mẽ đối với không chỉ trường đại học này, mà còn đối với chính phủ, đặc biệt là Thủ Tướng Narendra Modi, người đã giữ im lặng trong suốt gần một tuần sau khi xảy ra sự việc. Cuối cùng, Modi cũng đã phát biểu đầy xúc động tại một trường đại học với đa số sinh viên là người Dalit – trường Babasaheb Bhimrao Ambedkar (được đặt tên theo một vị lãnh đạo tiêu biểu của tầng lớp Dalit, người đã làm chủ tịch Ủy ban Dự thảo Hiến Pháp) – ở Lucknow, kêu gọi vấn đề này không nên bị chính trị hóa: “Chính trị là một phần nguyên nhân, nhưng một người mẹ đã mất đi đứa con trai của mình.”



Theo Google, Chhole Bhature là một món ăn phổ biến và đậm đà hương vị có nguồn gốc từ Bắc Ấn Độ, đặc biệt gắn liền với vùng Punjab. Đây là sự kết hợp giữa cà ri đậu gà cay (chhole) ăn kèm với bánh mì chiên giòn (bhature). Bữa ăn thịnh soạn này là lựa chọn phổ biến cho bữa sáng, bữa xế hoặc bữa trưa trên khắp Ấn Độ và nhiều nơi khác.
Sau đây là phân tích các thành phần chính và đặc điểm của món này:
Chhole (Cà ri đậu gà): Món cà ri đậm đà, thơm ngon này có đậu gà ninh trong nước sốt thường được làm từ hành tây, cà chua, gừng, tỏi và hỗn hợp các loại gia vị thơm. Các loại gia vị như thì là Ai Cập, rau mùi, nghệ và garam masala thường được sử dụng, với các biến thể khác nhau tùy theo sở thích của từng vùng miền và cá nhân.
Bhature (Bánh mì chiên giòn): Bhature là loại bánh mì dẹt chiên giòn mềm, xốp và hơi dai, theo truyền thống được làm từ bột mì đa dụng (maida), sữa chua và chất tạo xốp như men hoặc bột nở. Bột được nhào, ủ nở, sau đó cán mỏng và chiên giòn cho đến khi vàng nâu và phồng lên như quả bóng bay.
Chhole Bhature thường được dùng kèm với các món ăn kèm như dưa chua, chutney bạc hà tươi mát, hành tây thái lát, cà rốt và dưa chuột.
Mặc dù thơm ngon và bổ dưỡng, Chhole Bhature lại có hàm lượng calo và chất béo tương đối cao do được chiên giòn. Một khẩu phần tiêu chuẩn có thể chứa khoảng 450-500 calo. Tuy nhiên, đậu gà trong món Chhole Bhature cung cấp một nguồn protein và chất xơ dồi dào.
Sự phổ biến của Chhole Bhature lan rộng khắp Ấn Độ, đặc biệt là ở miền Bắc, và nó đã trở thành một món ăn đường phố và nhà hàng được yêu thích. Đặc biệt, Delhi có một khung cảnh Chhole Bhature sôi động, với một số nhà hàng nổi tiếng cạnh tranh cho danh hiệu nhà hàng ngon nhất. Theo người dùng Quora, Sita Ram Diwan Chand ở Paharganj thường được coi là lựa chọn hàng đầu.
Nhìn chung, Chhole Bhature đại diện cho một khía cạnh thơm ngon và có ý nghĩa văn hóa của ẩm thực Bắc Ấn Độ, mang đến trải nghiệm bữa ăn ngon miệng và thỏa mãn được nhiều người yêu thích.
Tuy nhiên, chính trị là một bộ phận cấu thành của những vấn đề mà bi kịch này đã làm nổi bật. Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, Jawaharlal Nehru, đã hy vọng rằng ý thức về đẳng cấp sẽ giảm bớt sau độc lập. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Vì đẳng cấp là một cách tự xác định bản sắc đầy quyền lực, nó tỏ ra là một công cụ hữu ích cho việc vận động chính trị tại các cuộc bầu cử dân chủ của Ấn Độ: Khi người Ấn Độ tham gia bầu cử, họ thường hay bầu cho tầng lớp của mình. Xoa dịu các tầng lớp khác nhau là kế sách để lấy phiếu bầu của các chính trị gia Ấn Độ.
Nếu Ấn Độ muốn quyết tâm xóa bỏ nạn phân biệt đẳng cấp và những tủi hổ mà người dân thuộc các tầng lớp thấp hơn phải chịu đựng, quốc gia này phải vượt qua nền chính trị bản sắc và tập trung vào những mục tiêu phát triển rộng hơn cũng như các thách thức kinh tế – xã hội. Đây không phải là một mục tiêu dễ dàng – nhất là khi người dân Ấn Độ đang phải cạnh tranh giành những cơ hội khan hiếm trong một đất nước quá đông đúc. Một khi thành kiến còn tồn tại, những chính trị gia trong nền dân chủ đầy tính cạnh tranh của Ấn Độ sẽ còn lợi dụng nó.
Ngày 30 tháng 1 đánh dấu lễ kỷ niệm lần thứ 68 kể từ vụ sát hại Mahatma Gandhi, người đã đấu tranh không chỉ vì nền độc lập, mà còn vì một đất nước Ấn Độ công bằng, bình đẳng và đạo đức hơn. Ấn Độ cần xem câu chuyện của Vemula như một lời nhắc nhở về sự cần thiết phải quay trở lại với lý tưởng của Gandhi, để những sinh viên giỏi người Dalit không còn bị đẩy đến sự tuyệt vọng hay những điều thậm chí còn tồi tệ hơn. Đó có thể chỉ là một hy vọng mong manh, nhưng đây chính là nền tảng căn bản cho đất nước Ấn Độ.

Đức Phật đã chỉ trích và bác bỏ chế độ đẳng cấp (còn được gọi là hệ thống Varna-Ashrama) trong xã hội Ấn Độ cổ đại, vốn phân chia con người thành các tầng lớp khác nhau dựa trên nguồn gốc sinh ra. Đức Phật khẳng định rằng địa vị xã hội không nên được xác định bởi đẳng cấp, mà bởi hành động và phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân. Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ được chia thành bốn đẳng cấp chính: Bà-la-môn (Brahmin), Sát-đế-lỵ (Kshatriya), Phệ-xá (Vaishya) và Thủ-đà-la (Shudra). Mỗi đẳng cấp có vị trí và vai trò riêng trong xã hội, với Bà-la-môn (tầng lớp tu sĩ và học giả) được xem là cao quý nhất và Thủ-đà-la (tầng lớp lao động) là thấp kém nhất. Đức Phật, mặc dù sinh ra trong một gia đình quý tộc (Sát-đế-lỵ), đã từ bỏ cuộc sống giàu sang để tìm kiếm con đường giác ngộ. Ngài không chấp nhận quan điểm rằng con người sinh ra đã có địa vị khác nhau. Đức Phật cho rằng tất cả mọi người, bất kể đẳng cấp nào, đều có khả năng đạt được giác ngộ và giải thoát.
Trong Phật giáo, mọi người đều có Phật tính và có thể tu tập để đạt được giác ngộ. Đức Phật đã thu nhận cả những người thuộc đẳng cấp thấp nhất vào tăng đoàn, và họ có thể đạt được địa vị cao quý trong giáo hội thông qua tu tập. Quan điểm của Đức Phật về bình đẳng đã có tác động sâu sắc đến xã hội Ấn Độ và sau này là các quốc gia theo Phật giáo. Nhiều người đã tìm đến Phật giáo để tìm kiếm sự công bằng và bình đẳng, và những lời dạy của Đức Phật đã góp phần làm suy yếu hệ thống đẳng cấp khắc nghiệt. Tóm lại, Đức Phật đã đưa ra một thông điệp mạnh mẽ về sự bình đẳng giữa mọi người, bất chấp những khác biệt về xuất thân hay đẳng cấp, và điều này đã có tác động sâu sắc đến lịch sử và xã hội Ấn Độ.
Rất tiếc những cuộc xâm lăng của quân Thổ Hồi giáo mà lần cuối cùng vào thế kỷ thứ 12 khiến cho nền Phật giáo ở Ấn Độ bị suy tàn cho đến nay. Ấn Độ hiện có 79,8% người theo đạo Hindu, Hồi giáo (14,2%), Ki Tô giáo (2,3%), Sikh (1,7%), Phật giáo chỉ còn 0,7%, Animism/Adivasi (0,5%), Jain (0,4%), và vô tôn giáo (0,2%).

Giới chuyên gia kinh tế nhận định lệnh cấm giết bò toàn diện (gồm cả con đực và con cái) có thể phản tác dụng do nông dân sẵn sàng tống bò ra khỏi nhà khi chúng ngừng tiết sữa. Tình hình có thể trở nên tệ hơn nếu nông dân từ bỏ việc nuôi bò vì họ phải nuôi chúng suốt cuộc đời. Người dân chỉ nuôi bò tại những bang cho phép họ giết mổ có chọn lọc, những con số cho thấy nông dân đang chuyển sang nuôi trâu ở những bang không cho phép giết bò.



(*) nghiencuuquocte.org – How India’s Caste System Survives – Shashi Tharoor







Thảo luận
Không có bình luận