//
you're reading...
ĐỘC HÀNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

Độc hành về phương đông (21) * Colnav Nguyen

“Tôi hoàn toàn thay đổi sau khi đã nhìn thấy ánh trăng chiếu soi ở nửa bên kia thế giới.” – Mary Anne Radmacher

Tiếp theo kỳ 20

V – BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG) (Tiếp theo)

Núi Linh Thứu (Vulture’s Peak – Gridhrakuta)

Hôm nay 26/5 tôi nhớ là ngày cưới của Peter Agra, anh có mời tôi nếu có thể thì đến dự khi chúng tôi chia tay đêm sinh nhật tôi. Đêm qua khi ăn cơm tối tại nhà Amar, tôi có nhờ anh dùng điện thoại của anh gọi Peter dùm tôi vì của tôi sẽ bị trả tiền “roaming”, luôn tiện để họ nói với nhau bằng tiếng Ấn Độ trước rồi tôi nói vào, tôi nói với Peter rằng tôi đã viếng Bồ Đề Đạo Tràng xong rồi và rất muốn đến dự đám cưới của anh nhưng khoảng cách giữa chúng tôi hiện đang xa quá nên chúc anh hạnh phúc, Peter níu kéo rằng sau đám cưới cũng được, tôi nói đám cưới xong là người ta đi honeymoon mất rồi. Peter cười và nói rằng tụi anh đi ở Barcelona, nghe là biết “Tây Bán Nhà” liền. Tôi học được thầy Minh Tuệ về tình cảm luyến ái, thầy nói “luyến ái sinh sầu bi, luyến ái sinh sợ hãi,” mà đúng thiệt, cần phải phớt lờ ngay lập tức sau khi chia tay, tất cả thuộc về quá khứ hết rồi, mỗi bước đang đi tới là mỗi bước trở về quá khứ, vừa mới liền đó mà lại xa vời vợi sẽ không bao giờ gặp, không bao giờ thấy, không bao giờ nghe tiếng nói nữa. Tôi cũng học được tính buông xả đem áp dụng vào đời sống thường nhật, bớt quan tâm dần đến ba cái phiền toái lẻ tẻ, bớt quan tâm đến những chào mời quảng cáo, sống giản dị hơn, không theo mới đổi cũ, xài được việc là được rồi, và quả nhiên có giúp nhẹ nhàng tâm trí, ngủ ngon và sâu.

Như đã đồng ý đêm qua với Amar rằng do hủy việc trở lại Agra để dự đám cưới nên anh sẽ đưa tôi đi Nalanda, trường đại học Phật giáo lớn và cũng là đầu tiên trên thế giới, thời vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha, ngày nay là Bihar). Địa điểm nằm cách Bodhgaya 86 km, đường nhỏ và xấu nên mỗi chiều mất khoảng hai tiếng. Lần này đi bằng taxi có máy lạnh, vừa mát vừa khỏi bụi bặm.

Chúng tôi khởi hành sớm, trẻ con và người lớn tự do đi tràn ra ngoài đường, không biết họ đi đâu mà đi cùng một lượt đông như vậy. 7:58 am
8:18 am
8:30 am
Giống những cây kè thấy ở núi Khổ Hạnh Lâm. 8:49 am
Dân làng theo đạo Hindu tụ tập làm lễ dưới cội cây lớn. 9:14 am
Nhóm ngồi bên ngoài đọc kinh chung với nhau.
Đám phụ nữ quì lạy quanh gốc cây.
Những phụ nữ khác nối đuôi đi vòng chung quanh. Amar nói hôm nay người Hindu có festival.
9:33 am
Bảng chỉ dẫn đường lên Núi Linh Thứu (Vulture Peak hay Gridhrakuta hay Gadhrakuta), theo truyền thống Phật giáo là nơi an trú ưa thích của Đức Phật ở Vương Xá (Rajagaha, nay là Rajir) thuộc tiểu bang Bihar, và cũng là nơi Phật đã giảng nhiều bộ kinh. 9:55 am
Muốn lên núi hoặc đi bộ hoặc xe cáp treo, xe cáp treo lên đến đỉnh núi Ngũ Phong nơi có bảo tháp màu trắng gọi là tháp Hòa Bình, rồi từ đó đi bộ xuống núi Linh Thứu.
Dĩ nhiên là tôi chọn đi bằng xe cáp treo, trời hôm nay rất ẩm, chưa leo trèo mà mồ hôi đã thấm ướt áo rồi. 10:07 am
10:09 am
10:12 am
Tháp Hòa Bình y hệt ngôi tháp đã thấy ở Lumbini, Nepal, do một hòa thượng người Nhật xây vào năm 1969 để cầu nguyện cho sự hòa bình của thế giới và lan tỏa sự bình an đến tất cả mọi người.
Lúc đi lên, xe cáp treo chúng tôi chỉ có ba người, tôi, Amar và một nhà tu Nhật cao tuổi. Tôi có chào hỏi ông, nói rằng năm ngoái tôi có qua chơi bên nước ông. Khi đến đỉnh, ai đi đường nấy, tôi hỏi Amar sao ông này trông giống cái ông trong hình lớn treo ở tầng dưới, bấy giờ Amar mới nói ông chính là vị hòa thượng coi sóc ngôi bảo tháp. Thì ra tôi cũng có chút duyên được gặp ông, trao đổi vài câu, dù chỉ một thoáng.
Lối đi vòng xuống Linh Thứu. 10:15 am
Ở độ cao 400 m, đỉnh núi nầy trong số những nơi thu hút du khách ở Rajgir thích đến ngoạn cảnh. Dưới chân núi, cách đỉnh gần 2km theo hướng Tây Nam là ngục giam của vua Tần-bà-sa-la, vị vua đáng thương đã bị người con trai A-xà-thế (Ajatasattu) nhốt vào ngục hòng đoạt ngôi, nhưng đức vua đã qua đời ngay khi A-xà-thế ôm lòng hối hận, sót thương cha.
Vua Tần-bà-sa-la sau khi bị nhốt trong ngục, mỗi ngày ông đều hướng tâm về hương thất của Đức Phật. Hoàng Hậu Vi-đề-hy (Videhi) mang tấm lòng thành kính của ông đến Đức Phật. Thế Tôn giảng kinh để cho bà về lặp lại cho ông nghe, nhờ đó ông đã xóa bỏ hận thù với con trai của mình. Tại Linh Thứu sơn đức Phật cũng đã hóa độ vua A-xà-thế.
(*) 10:18 am
Kiến và bọ cạp trên lối dốc lên xuống Linh Thứu, các vị khất sĩ mỗi bước chân phải nhìn chừng xuống đất để tránh không giẫm đạp lên các sinh linh nhỏ bé.
Linh Thứu thấp thoáng không xa ở bên dưới. Đây là một trong nhiều địa điểm Phật và tăng chúng thường xuyên lui tới để vừa tu học vừa an cư kiết hạ. Kinh sách Phật giáo thường nhắc tới địa danh này như là nơi Phật đã từng thuyết giảng nhiều bộ kinh, trong đó có Heart Sutra, Lotus Sutra, Surangama Samadhi Sutra, cũng như nhiều kinh prajnaparamita.

Núi Linh Thứu trong tiếng Pali là Gijjhakuta có nghĩa là ngọn núi Kền Kền vì trên đỉnh núi có tảng đá với hình dạng giống đầu của con chim thú. Nơi đây đã từng là hương thất của Đức Phật, am thất của các vị đại đệ tử như Xá-lợi-phất (Sariputta), Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa), Mục-kiền-liên (Moggallana) và A nan. Nơi đây, Đức Phật cùng đại chúng hội Tỳ khưu tuyên thuyết pháp âm diệu nghĩa. So với núi Yên Tử tại tỉnh Bắc Ninh chiều cao của nó bằng 1/6 cho đến 1/8. Khu vực xung quanh núi là những rặng cây rậm rạp, tươi tốt, xa xa là các dãy núi liên hoàn, các đồng ruộng bát ngát, các làng mạc và những phố xá nằm rải rác quanh đồi núi.

Với vị trí thuận lợi cho việc tu tập và đi khất thực của chư Tăng, Đức Phật đã chọn nơi đây làm chỗ cho tăng đoàn cư trú. Xung quanh triền núi có nhiều hang động, thiền thất của các vị thánh đệ tử.

Sau khi chứng đắc đạo quả Chính Đẳng Giác, Đức Thế Tôn du hóa hoằng pháp, thu nhận đồ chúng đệ tử ngày càng đông. Trong đó, kể đến có đức vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) – quân vương của đế chế Ma-kiệt-đà (Magadha) một trong những vương quốc hùng cường trong 16 quốc gia thời bấy giờ cũng đã quy y với Đức phật với tư cách là cư sĩ. (*)

Nổi tiếng với lòng mộ đạo, quý kính Đức Phật, đức vua đã cho người xây những bậc tầng cấp đi lên đỉnh núi – nơi Đức Thế Tôn an ngự – để có thể gần gũi với Ngài và nghe pháp. Đức vua là vị minh quân hỗ trợ đắc lực cho tăng đoàn trong công cuộc hoằng pháp. Ngày nay giữa lưng chừng triền núi có tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần-bà-sa-la xuống kiệu bộ hành lên đỉnh núi để đỉnh lễ Đức Phật. (*) 10:36 am
Gridhakuta hay Vulture’s Peak tức Linh Thứu là một trong ba nơi quan trọng nơi Đức Phật thuyết giảng nhiều bộ kinh trong nhiều năm.
Gridhakuta tức Linh Thứu hay Vulture Peak, tọa lạc tại Vương Xá (Rajgir), bao bọc bởi năm ngọn núi thiêng. Đây là nơi mà Đức Phật lần thứ hai chuyển pháp luân, và nơi mà trong năm mùa mưa Ngài đã nhiều bài pháp, trong số đó bốn bài kinh quan trọng nhất trong đó có Lotus Sutra (Diệu pháp Liên hoa Kinh), the Perfection of Wisdom Sutra. Cũng tại núi Linh Thứu này mà vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) – quân vương của đế chế Ma-kiệt-đà (Magadha) đã qui y Phật. Cũng tại đây mà Devadatta (Đề bà Đạt đa), anh em họ với Đức Phật với sự trợ lực của Hoàng tử Ajatasatu, đã mưu đồ sát hại Phật. Du tăng Trung Hoa nổi tiếng Huyền Trang đã từng đến viếng nơi nầy.
Cộng đồng người Tây Tạng theo Phật giáo phái Mật tông mỗi khi đi du hành, chiêm bái họ thường mang theo một vài phiến đá, khi họ xuất phát tại một điểm nào đó họ sẽ đặt phiến đá tại đó, lần sau họ lên nữa thì đặt chồng các phiến đá lên nhau để ghi nhận sự có mặt của họ tại nơi đất thiêng. Khu vực xung quanh núi Linh Thứu các phiến đá chồng chất này cũng thường thấy và phổ biến. (*)
Am thất của ngài Mục Kiền Liên. Hang động khá nhỏ và mờ tối, với chiều sâu 4m, chiều cao có chỗ 1m5.
10:40 am
Hang động của ngài Xá-lợi-phất. Trong kinh tạng Pali, Đức Phật gọi ngài Xá-lợi-phất là tướng quân của chánh pháp, vị thánh có trí tuệ nổi tiếng chỉ sau Đức Phật. Ngài đã từng thay thế Đức Thế Tôn giảng nhiều bài kinh. Ở lĩnh vực này, không có vị thánh tăng nào có được đẳng cấp trí tuệ như Ngài. Tại vị trí thiền thất của tôn giả Anan thì gần hương thất của Phật, khi có khách đến cầu thỉnh Đức Phật thì ngài là người đứng ra thu xếp. (*)
Từ Linh Thứu nhìn ngược lên thấy chóp của tháp Hòa Bình.

Gọi nơi ở của Phật là hương thất là bởi vì hai chữ ấy dùng để xưng tán công đức, giới hạnh tinh nghiêm, trí tuệ vĩ đại của Ngài được ví như đóa hoa tỏa hương thơm ngát bay khắp muôn phương khiến cho tất cả chúng sanh khắp trong ba nẻo sáu đường cảm phục và tôn kính. (*)

“Hương các loài hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược khắp gió tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Hương tỏa mọi phương trời”
-Kinh pháp cú-

Kế bên hương thất, có một khối đá rất lớn được cho là khối đá mà Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) đã xô từ trên đỉnh núi xuống để làm hại Ngài.

Hương thất của Phật ngày nay là một di tích nền gạch khoảng 3 mét vuông. Tại vị trí này, các đoàn hành hương thường làm lễ, cầu nguyện và tụng kinh. Kế bên hương thất, có một khối đá rất lớn được cho là khối đá mà Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) đã xô từ trên đỉnh núi xuống để làm hại Ngài. (*) 10:47 am

Linh Thứu Sơn cũng minh chứng cho giai thoại Niêm hoa vi tiếu trong nhà thiền. Nói đầy đủ là Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu nghĩa là Đức Phật Thích Ca cầm hoa đưa lên, Ngài Ca Diếp mỉm cười. Nhân đó, Đức Phật ấn chứng sự thâm ngộ của ngài Ca Diếp và nói rằng: “ta có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, thực tướng, vô tướng, vi diệu pháp môn bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay truyền cho Maha Ca Diếp”, từ đó về sau ngài Ca Diếp được suy tôn là sơ tổ Thiền tông Ấn – Hoa.
Năm xưa, ngài Pháp Hiển sang Ấn Độ để cầu pháp cũng đã đến chiêm bái tại đỉnh núi này và ghi lại chuyến hành hương của mình trong Phật Quốc Ký. Sau đó đến Tam tạng Huyền Trang đời nhà Đường cũng đã viếng thăm và ghi lại cuộc hành trình của mình trong Đại đường Tây Vực Ký.
(*)

(*) phatgiao.org.vn

Xem tiếp kỳ 22

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục