//
you're reading...
ĐỘC HÀNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

Độc hành về phương đông (20) * Colnav Nguyen

 “Nếu bạn từ chối đồ ăn, bỏ qua phong tục, sợ hãi tôn giáo và lảng tránh người lạ, tốt hơn là bạn nên ở nhà.” – James Michener

Tiếp theo kỳ 19

V – BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG) (Tiếp theo)

Rời đền Sujata, chúng tôi băng trở về bờ bên phía Bồ Đề Đạo Tràng của sông Ni Liên Thiền. Gần bờ sông, đoàn người Hindu giáo đang làm lễ hỏa táng cho người quá cố. 1:43 pm
Đám đông đứng tụm quanh người chết xem đạo sĩ Bà La Môn cầu kinh.
Họ có cả ban trống kèn.
Mệt quá, một người ngã lăn xuống cát nằm nghỉ, nơi những xác chết thường được mang xuống đây hỏa táng, xương cốt, áo quần cũ còn rải rác đó đây, đợi mùa mưa tới nước sẽ cuốn đi tất cả.
Trái với bờ bên kia, bên này kẹt xe còi bấm inh ỏi.

Cách thủ phủ Patna của bang Bihar 115km, Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng hay Giác Thành) là thánh địa lớn nhất của Phật tử trên khắp năm châu, mỗi năm có hàng trăm ngàn người đến đảnh lễ, chiêm bái.

Bodh Gaya linh thiêng bởi đã chứng kiến một sự kiện hy hữu bậc nhất trần đời: Bồ tát thành Phật. Vượt thoát lên hẳn so với những vị tu sĩ lừng danh thời bấy giờ, sau sáu năm chuyên ròng khổ hạnh, Bồ tát đã từ bỏ lối sống được xem là tôn quý nhất để theo con đường Trung đạo và trở thành Đấng Đại Giác Thế Tôn. (*)
Sau khi nhận bát cháo sữa (người Ấn gọi là kheer), một loại thức ăn sang quý của thôn nữ Sujata dâng cúng, Bồ tát cảm thấy tinh thần phấn chấn. Ngài vượt qua dòng Ni Liên Thiền, đến dưới cội bồ đề và lập thệ nguyện: “Nếu không chứng được đạo quả Vô thượng, thì dầu cho thân thể tan nát, Ta quyết không rời khỏi cội bồ đề này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Bồ tát chứng được Tam minh, tận trừ Tam lậu và biết rằng “Ta đã được giải thoát”. Ngài thốt lên: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc cần làm đã làm xong, Ta không còn trở lại đời này nữa”. (*)
Tương truyền rằng: Vào khoảng năm 250 TCN, vua A Dục thuộc vương triều Mauryan (Ma Ta Ga) của nước Ấn Độ xưa (làm vua từ năm 35 tuổi và mất năm 73 tuổi, tức từ năm 269 TCN-232 TCN) có tâm nguyện đi hành hương qua các vùng Phật tích. Ông đến làng Uruvela (còn có các tên khác là Mahabodhi, Vajrasana, Sambodhi) và cho xây dựng một ngôi đền mang tên “Đại Giác Ngộ” để kỷ niệm nơi đức Phật thành đạo.  Sau khi đền bị phá hủy, vào thế kỷ thứ 3 TCN, vua A Dục có “sắc lệnh” cho xây dựng lại Bảo tháp. Quần thể kiến trúc (gồm tháp Đại Giác, Tòa Kim Cương, tường rào bảo vệ cây Bồ đề) đã trải qua nhiều lần trùng tu và kiến tạo dưới nhiều triều đại Phật giáo khác nhau, hoàn thành vào thế kỷ thứ 7, dưới triều đại Gupta. Nơi đây đã trở thành “trái tim của văn hóa Phật giáo” trong vài thế kỷ, cho đến khi nó bị quân Hồi giáo đánh chiếm vào thế kỷ 12. (**)
Đến thế kỷ 14, các triều vua Miến Điện cho trùng tu lại Bảo tháp và Bồ Đề Đạo Tràng trở thành thánh địa của tín đồ Ấn Độ giáo, thuộc quyền sở hữu của các hàng đạo sĩ Ấn; thậm chí vào năm 1590, có một vị đạo sĩ Ấn giáo là Mahant Ghamandi Giri tự xưng là “Người kế thừa Bồ Đề Đạo Tràng”. Sau đó, khu Phật tích tại làng Aruvela lại rơi vào quên lãng và tháp Đại Giác dần trở nên hoang phế do chịu nhiều tác động bởi điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. (**)
Hơn hai thế kỷ sau, năm 1811, một nhà khảo cổ người Anh là Buchanan Hamilton đã phát hiện ra tháp Đại Giác trong tình trạng đổ nát, bị chôn vùi dưới lòng đất. Đến năm 1875, vua Mindon Min của Miến Điện xin phép chính phủ Anh (do Ấn Độ đang là nước thuộc địa) cho trùng tu lại tháp; nhưng giai đoạn đầu của việc sửa chữa bị dừng lại do không thực hiện đúng theo truyền thống (?). Năm 1880, ngài Asley Eden – Phó thống đốc Bengal, truyền lệnh cho J.D. Beglar tiến hành khai quật; đồng thời giao ông tổ chức xây dựng lại hoàn toàn ngôi Bảo tháp dựa trên vị trí ngôi đền ngày xưa từ thời vua A Dục, với sự cố vấn trùng tu của ông Cunningham và Tiến sĩ Rajendra Lal Mitra. Vào năm sau (1881), Beglar phát hiện ra bệ đá – được gọi là “Tòa Kim Cương” và cho phục hồi di tích xá lợi của đức Phật được lưu giữ tại đó (có thể là trên chóp tháp như mọi người kể lại chăng ?).
Cuộc trùng tu này đựơc chính phủ Anh ở Ấn Độ đảm trách trong hai năm (1880-1881), với phương thức cho khôi phục lại hình thức như nó từng tồn tại từ thời trung cổ. Đây là công việc phức tạp và đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhiều mặt, để hầu hết chi tiết từ các bản vẽ mô phỏng ngôi đền và Bảo tháp nguyên thủy (được cho là xây dựng vào thời đại Maurya, khoảng năm 317 TCN-180 TCN) trở nên hiện thực và chính xác. Từ đó có được công trình tháp Đại Giác như ngày nay và được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào ngày 27/6/2003, đưa khu Bồ Đề Đạo Tràng vào danh sách di tích văn hoá thế giới.
(**)
Trên đường băng qua Ni Liên Thiền, tôi hỏi Amar, người hướng dẫn du lịch vừa đưa tôi đi thăm Khổ Hạnh Lâm và Sujata Temple, rằng anh có biết monk Minh Tuệ không. Anh nói không nhưng đưa phone cho tôi đánh tên ấy vào Google, lập tức hình ảnh về thầy hiện ra. Amar liền gọi điện cho người bạn làm bảo vệ hỏi có biết thầy không. Câu trả lời là không những biết mà còn đang bảo vệ cho đoàn của thầy nữa. Anh ta cho hay thầy cùng các sư khác đang hiện diện trong Bồ Đề Đạo Tràng. Được tin mật báo, chúng tôi quyết định trở lại thánh địa lần thứ hai trong ngày. Rút kinh nghiệm hồi sáng, lần này đem gửi trước máy hình, cellphone, pin.. chỉ đeo cái túi xách nhỏ trước ngực. Bên trong đạo tràng, từng nhóm từng nhóm Phật tử, nhà tu đủ các nước tụ lại thiền định, cầu kinh. Tôi nhận ra nhóm sư của “phe ta” thật dễ dàng vì bộ y của các vị đều “không giống ai.”Họ đang xả thiền nghỉ ngơi trong khu vực cây to tàng lá rộng che bóng mát cho những stupa cúng dường. Thầy đang đứng tươi cười, vừa tiếp xong một vài Phật tử. Tôi liền phủ phục và đảnh lễ ba lần, Amar cũng làm theo.
Tôi thưa với thầy giống như mới trình bày với sư Bửu Khánh hồi sáng, và rằng tôi chỉ lưu lại đây có hai hôm, do trong này không được phép chụp ảnh nên tôi xin thầy ký tên vào hai cuốn sách tôi mang theo sẵn trong túi xách. Cuốn trong hình thì ai cũng biết đã dịch ra với tựa “Câu chuyện dòng sông”, và cuốn thứ hai là cuốn “Before He Was Buddha.” (Trước khi Ngài thành Phật). Hồi này thầy chỉ ký “A Di Đà Phật” thay vì ký tên nên cả hai cuốn đều thiếu đi chữ ký. Tôi liền năn nỉ và thầy ký thêm tên thầy vào cuốn này. Vậy là tốt đẹp quá rồi, tôi không hỏi xin thầy ký vào cuốn kia như vậy chỉ tỏ ra mình tham lam. Xin chữ ký xong, chúng tôi ngồi xuống một bậc cấp gần đó để chiêm ngắm thầy sinh hoạt với các Phật tử. Có cặp vợ chồng đang ôm một lõi nồi cơm điện đi xin chữ ký của từng sư trong đoàn, với tôi tôi chỉ quan tâm đến một mình thầy thôi. Amar nói anh sinh ra và lớn lên tại đây, anh từng gặp rất nhiều nhà tu nhưng hôm nay anh cảm được luồng năng lượng nơi thầy ngay khi vừa gặp, rất tiếc tôi thì không, chắc chưa đủ căn cơ. Một bà Phật tử mang đến hai chai nước ướp lạnh mời chúng tôi. Lát sau có một bà khác đến ngồi xuống cạnh chúng tôi, tặng tôi hai chiếc lá bồ đề, một lá tôi đem chụp chung với cuốn sách trong hình. Trong này người ta vào ngồi thiền định trông mong lượm được lá từ cây bồ đề Phật đắc đạo rơi xuống đem về, mấy bà này túc trực cạnh các thầy hầu như mỗi ngày trong này nên mới có cơ hội lượm để tặng lại làm phước.
Buổi ăn tối đơn sơ do Amar mời tôi đến ăn tại nhà. Từ nhà Amar có thể nhìn thấy được đại bảo tháp. 7:37 pm
Hơn hai nghìn năm rồi, cội bồ đề cũng đã trải qua mấy chu kỳ sinh diệt, nhưng hình bóng Đức Phật như vẫn còn đó, Ngài vẫn ngồi đó, mặc cho bao thăng trầm của cuộc thế. Người ta đến để khóc với Ngài, đến để hưởng một chút an vui từ Ngài, hay đơn thuần đến để xin một chút đất nơi Ngài thành đạo…, tất cả đều toát lên một cái tâm kính thành tha thiết. (*)

(*) giacngo.vn

(**) tapchikientruc.com.vn

Xem tiếp kỳ 21

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục