//
you're reading...
ĐỘC HÀNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

Độc hành về phương đông (17) * Colnav Nguyen

“Tôi chưa đi được hết mọi nơi nhưng tất cả đều nằm trong danh sách điểm đến của tôi.” – Susan Sontag

Tiếp theo kỳ 16

IV – VARANASI VÀ SARNATH (Tiếp theo)

Bảo tháp Dharmarajika Stupa

Sơ đồ khu khai quật di tích khảo cổ tại Sarnath, trên đó cho thấy vòng tròn bên phải là bảo tháp Dhamek Stupa và vòng tròn kia là Dharmarajika Stupa, còn lại là di tích các tự viện và các stupa cúng dường nhỏ.
Tàn tích của đại bảo tháp Dharmarajika Stupa do vua A Dục xây để thờ xá lợi Phật. Thoạt đầu tháp Dharmarajika chỉ là một stupa nhỏ có đường kính 13,4 m, về sau mở rộng qua sáu thời kỳ khác nhau, bằng cách gia tăng bề cao lẫn bề rộng, sau đó tạo một lối đi chung quanh nền tháp, bốn góc có cầu thang dẫn lên làm bằng đá nguyên khối.
Dhammarajika nay chỉ còn bệ nền phẳng phiu sau khi Jagat Singh, quan thượng thư của tiểu vương Chet Singh xứ Banaras vào năm 1794 đã phá bảo tháp lấy gạch để xây một khu chợ trời. Một hộp bằng đá cẩm thạch xanh lục đựng xá lợi Phật được tìm thấy và theo nghi thức Hindu được đem quăng xuống sông Hằng.
Về sau trong cuộc khai quật khảo cổ, hai tượng bồ tát to lớn thời kỳ Kushana cùng một tượng Phật ngồi xếp bằng, tay bắt ấn chuyển pháp luân thuộc thời kỳ Gupta, được tìm thấy ở chu vi bảo tháp.
Phức hợp các tự viện nằm viền chung quanh vườn Lộc Uyển xây trong khoảng từ thế kỷ 3 trước công nguyên đến thế kỷ 7 sau công nguyên. Mãi đến thế kỷ thứ 12 tất cả đền, tháp, tự viện đều bị hủy diệt bởi Qutbud-Din Aibak, tướng của Muhammad Ghori, vào năm 1194, rồi từ đó bị để hoang phế.

Vua A Dục viếng thăm Sarnath vào năm 249 trước công nguyên và xây dựng nhiều kiến trúc để đánh dấu cuộc hành hương đến đây của mình, đáng kể nhất là bảo tháp Dhamek Stupa, Dharmarajika Stupa, và trụ đá trên đỉnh có tượng bốn sư tử nhìn bốn hướng. Vào thời đại vua Kaniska (78 sau công nguyên), Sarnath là trung tâm của các hoạt động tôn giáo và tượng bồ tát khổng lồ được che bằng lọng do tì khưu Bala of Mathura thực hiện. Suốt thời đại Gupta (thế kỷ 4-6 AD), tháp Dhamek được bao bọc bằng đá có chạm trổ, đền chính Mulagandhakuti được mở rộng, và bức tượng Phật giảng pháp nổi tiếng được vua Kumaragupta tặng thêm vào.

Năm 520 AD, Sarnath chịu chung số phận như các thắng tích Phật giáo khác, bị phá hủy trong cuộc xâm lăng của rợ Huns. Tuy nhiên sau khi chúng bị đánh bại, Sarnath lại một lần nữa nở rộ dưới thời vị vua sùng đạo Phật Harsa Vardharna (606-647 AD) và tiếp tục là một nơi thờ phượng sống động dưới thời các vua Pala (thế kỷ 8-12 AD). Người bảo trợ Sarnath cuối cùng được biết là Nữ hoàng Kumaradevi, người vợ Phật tử ngoan đạo của vua Govindachandra của xứ Benares (1114-1154 AD). Bà cho xây một tự viện lớn tại Sarnath lấy tên là Dhammacakka Jina Viharak, mà tàn tích được phơi bày trong cuộc khai quật vào đầu thế kỷ thứ 20. Mọi sự trở nên tệ hại khi đạo quân Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ, đi đến đâu tàn phá đến đó. Sau cuộc di cư lánh nạn của tăng đoàn, Sarnath trở nên hoang phế và bị quên lãng trong suốt 600 năm.

Năm 1794, Sarnath trở thành sự chú ý của thế giới bởi những sự kiện đau buồn. Jagat Singh, quan thượng thư ở Benares cho phá dỡ tháp Dharmarajika Stupa nổi tiếng để lấy gạch và đá để xây dựng. Khi công nhân lấy gạch xuống đến độ sâu 8,3 m thì gặp một hộp bằng đá chứa một bình đựng di cốt bằng cẩm thạch màu xanh lục, bên trong có di cốt người, được cho là của Đức Phật, vì được vua Asoka cho thờ tại đây. Theo tục lệ Hindu, Jagar Singh cho ký thác xuống sông Hằng, và coi như mất luôn. Hành động phá hoại này qua đi mà không ai chú ý. Không bao lâu sau đó, công chúng bắt đầu chú ý đến những tàn tích của Sarnath, và vào năm 1815, Đ/tá C. Mackenzie bắt đầu thám hiểm và khám phá một số bức tượng mà nay đang nằm ở bảo tàng Calcutta Museum. Trong các năm 1835-36, Cunningham tiến hành nhiều cuộc khai quật và thu hồi được hơn 40 tượng điêu khắc và đá có chạm trổ. Một bi kịch khác xảy ra khi người ta chở đi 60 xe đầy đá lấy từ các đền để làm vật liệu xây hai cây cầu và một số tòa nhà ở Benares. Những cuộc khai quật khác về sau từ 1851 đến 1922 không được liên tục nhưng khôi phục được các tháp Dhamek và Dharmarajika, đền Mulagandhakuti, trụ đá A Dục, và tàn tích của nhiều tự viện, vốn được xem là linh thiêng vì liên quan đến Đức Phật.

Ảnh chụp Chaukhandi Stupa hồi mới bắt đầu và sau khi khai quật (hai hình trái). Ba tượng Phật trước và sau khi đào lên, hiện được trưng tại viện bảo tàng ở Sarnath, tôi không xem được vì bảo tàng đóng cửa vào ngày thứ Sáu, ngày tôi đến viếng.
Không ảnh của Chaukhandi Stupa.
Tượng Phật chuyển pháp luân, một trong những tượng được cho là đẹp nhất của mỹ thuật thời Gupta, từng được mô phỏng lại nhiều nhất. Pho tượng nổi tiếng nầy do vua Kumaragupta trị vì từ 414-455 sau công nguyên tặng. Hào quang được chạm trổ hoa văn, hai chư thiên bay ở hai góc phía trên. Ở bệ tượng có hình bảy người, tượng trưng cho năm vị khất sĩ tu khổ hạnh, cộng với nữ hoàng và người con trai, tất cả cùng quì hướng về bánh xe pháp.
Tượng bốn sư tử quay mặt bốn phía đứng trên đỉnh trụ đá A Dục, nay là biểu tượng trên lá cờ của Ấn Độ, ảnh chụp lúc mới khai quật và sau khi. Tượng do Friedrich Oscar Oertel, một kỹ sư công chánh Đức đào được vào năm 1904-05. Hiện cũng được trưng bày tại viện bảo tàng Sarnath.
Đại bảo tháp Dhamek thuở còn nằm giữa chốn hoang vu.
Dhamek Stupa trước và sau khi phục hồi.

Xem tiếp kỳ 18

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục