Từ Kushinagar tôi dự tính sẽ xuống xe ở Sarnath, lấy phòng ở đó để đi viếng thánh tích nơi Phật chuyển pháp luân cho tiện, rồi từ đó đi xuống Varanasi cách chừng 11 km xem sinh hoạt của tín đồ Hindu nơi sông Hằng linh thiêng nhất của họ cho biết. Lại mưu sự tại nhân, xe đổ bến cuối cùng ở Varanasi thì mặt trời đã lặn, phố xá vừa lên đèn, tôi đành kiếm phòng ở đây, vậy hóa ra mà lại thuận tiện mọi bề.
Giống như hầu hết các nơi đã đi qua, cứ mỗi ba ngày tôi lại di chuyển sang chỗ mới, ngày đầu mới đến nghỉ ngơi, ngày hai dành trọn ngày đi thăm viếng, ngày ba nhổ neo đi tiếp. Vanarasi cũng vậy, tối nay nằm nghỉ sớm, mai dành trọn ngày, sáng xuống sông Hằng, trưa đi Sarnath, tối về ngủ sửa soạn ngày hôm sau đi Bodh Gaya hay Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi nhiều chuyện bất ngờ đang chờ tôi đến.
Varanasi rộng lớn, sạch sẽ từng mỗi ngóc ngách, khác hẳn với các nơi tôi đã đi qua. Ngồi bên cửa sổ xe buýt nhìn ra thấy phố xá sầm uất, xe cộ tấp nập, còi xe inh ỏi như mọi nơi tôi đã đi qua, “chuyện thường tình ở huyện” đó mà.
Khách sạn tôi ở loại minihotel cao tầng, mặt tiền ngó ra đường phố chính, xe cộ tới lui tấp nập, người đi bộ cũng nhiều. Tôi ở tầng 3, hình như không thấy có thang máy, có hay không tôi cũng không quan tâm vì tôi tập thói quen đi lên xuống thang bộ bảy lần mỗi ngày được một năm nay rồi, nên đến đâu tôi cũng thích đi cầu thang bộ hơn. Ban đêm tiếng còi xe inh ỏi vẫn nghe rõ trong phòng. Rồi đột nhiên một âm thanh khác mạnh hơn, xen lẫn với tiếng còi xe, tiếng nhạc Ấn Độ phát ra từ dàn loa cực mạnh vang lên cả phòng, tôi vội xỏ dép chạy xuống xem chuyện gì.
Vừa xuống đến tầng trệt, anh thanh niên trực lễ tân nói ngay ra ngoài mà xem festival. Bên kia đường đoàn diễn hành dài vừa đi qua còn thấy phần đuôi, tôi ven theo lề đường đi nhanh lên phía trước để xem từ đầu. Dẫn đầu là xe tải lớn trang hoàng thành xe hoa đèn đuốc sáng trưng nhiều màu, dàn loa cực mạnh phát ra từ đây, gây kích động cho đám nam thiếu niên mặc áo trắng vừa đi theo vừa nhảy múa loạn xạ, nối đuôi bởi một dãy cây đèn hình lọng dù sáng rực gắn trên các xe nhỏ, đoàn người nam nữ đều có, mặc đồ đẹp đẽ đi theo sau và hai bên các lọng dù.
Vừa về đến phòng mới nhớ đến việc phải nhỏ thuốc cho mắt, tôi bị cao nhãn áp, mỗi ngày cần nhỏ hai lần. Tìm không thấy lọ thuốc mới nguy chứ, điều nguy hiểm không khác chi bị mất passport, nguy hiểm hơn nữa chứ vì còn hai tuần nữa mới về mà. Thuốc cao máu, cao mỡ tôi có đem dư thừa cả, riêng thuốc nhỏ mắt lại chỉ mang một lọ mới dại làm sao. Mới xấp xỉ tám giờ tối, hy vọng pharmacy còn mở cửa, tôi xuống lầu hỏi anh receptionist chỗ nào gần đây để hỏi mua. Theo lời anh tôi đi đến nơi hóa ra là một tiệm tạp hóa, có bán thuốc nhức đầu sổ mũi. Nhớ vài tuần trước khi đi Ấn tôi có chụp mấy lọ thuốc tôi đang dùng để bác sĩ của tôi cập nhật hồ sơ sức khỏe, trong số đó tôi có chụp lọ thuốc nhỏ mắt. Tôi mở hình cho anh lễ tân xem, anh nói sẽ cố tìm giúp online cho tôi rồi tôi quay lên phòng. Nhớ lại hồi chiều khi theo mọi người rời khỏi xe buýt, lúc loay hoay khiêng ba lô đứng dậy, tôi nghe tiếng cái gì đó rơi xuống sàn, nghe nhỏ lắm nên tôi không chú ý nhìn xem cái gì rớt, để rồi bây giờ phải ray rứt, phải chi, phải chi thế nọ thế kia.
Cuối cùng thì Phật đã từ bi cứu tôi vì tôi đã tìm thấy nó. Bài toán cực kỳ nan giải nay được khai thông. Tôi có thể sung sướng nằm xuống nhỏ những giọt thuốc quí giá vào đôi mắt. Một bài học ai cũng nên lưu ý khi du lịch ra nước ngoài.
Hôm nay ngày 22/5, tôi qua Ấn khuya 15/5, nhìn lại thấy chỉ mới một tuần mà đã đi qua biết bao nhiêu nơi, dừng bao nhiêu chỗ, đổi bao nhiêu xe, trải nghiệm bao nhiêu thứ, tiếp xúc trực tiếp bao nhiêu người, mọi sự gặp rồi biến, đến rồi đi biền biệt.
Varanasi nằm ở phía đông nam tiểu bang Uttar Pradesh là một thành phố cổ xưa nhất trên thế giới, có người ở liên tục từ thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, được tín đồ Hindu xem như một trong bảy thành phố linh thiêng nhất. Khoảng năm 900 trước công nguyên, những người dòng Arya của Ấn Độ đến Varanasi, biến nơi đây thành một kinh đô hùng mạnh về thương mãi cũng như tư tưởng học thuật, và tiếp tục tồn tại đến ngày nay trong khi nhiều thành phố cổ khác đã điêu tàn. Mark Twain, văn sĩ Mỹ từng đến Ấn Độ năm 1896, đã thăm Veranasi và viết: “Varanasi xưa hơn lịch sử, cổ hơn truyền thống, cũ hơn cả huyền thoại và tuổi của nó gấp đôi tất cả những thứ vừa kể cộng lại.“
Dọc theo nhiều đường nhỏ ngoằn ngoèo đổ ra hướng sông, có khoảng 2000 ngôi đền, đặc biệt là Đền Vàng thờ thần Shiva đạo Hindu. Đến thế kỷ 2 trước công nguyên, Varanasi là trung tâm của triết học và tôn giáo Vệ Đà, và cũng là trung tâm thương mãi và kỹ nghệ, nổi tiếng với hàng vải muslin, tơ lụa, nước hoa, đồ làm bằng ngà, và đồ tượng chạm khắc. Đây cũng là kinh đô vương quốc Kashi thời Phật còn tại thế.
Cách sông gần hai cây số xe tuk tuk không được phép vào sâu hơn nữa, tôi phải xuống xe đi bộ như mọi người, mồ hôi bắt đầu chảy ướt trong áo. 9:14 am.
Trần Huyền Trang hồi viếng qua đây vào năm 635 nói rằng thành phố trải dài 5 km, dọc theo bờ tây của sông Hằng. Tuy nhiên Varanasi suy tàn trong ba thế kỷ bị quân Hồi giáo xâm lăng và cai trị, bắt đầu từ 1194. Nhiều đền Hindu bị phá hủy, nhiều học giả phải lánh nạn sang vùng khác. Varanasi trở thành một vương quốc độc lập vào thế kỷ 18, rồi sau đó dưới sự cai trị của người Anh, thành phố vẫn giữ vị trí như là một trung tâm thương mãi và tôn giáo.
Được xem như là thủ đô tâm linh của Ấn Độ. Varanasi thu hút dân hành hương đạo Hindu tức Ấn giáo đến đây để được tắm nước thiêng của sông Hằng, để hỏa táng thi thể người quá cố rồi rải tro cốt xuống sông. Mỗi năm nơi đây tiếp nhận hơn một triệu tín đồ hành hương, chưa kể hằng ngàn du khách ngoại quốc lẫn bản địa, góp phần không nhỏ vào nền kinh tế địa phương. Du khách đến Varanasi bằng đủ phương tiện, nhưng nhiều tín đồ Hindu đi bộ từ xa đến, tin rằng càng gian khổ tren đường đi thì tội lỗi càng được chóng rửa sạch. Ai chết tại đây linh hồn sẽ thoát khỏi sinh tử để về với đại ngã bao la. Vì thế nhiều người già đến đây để đợi chết.
Hàng bán lễ vật dâng cúng thần linh. Hindu là tôn giáo cổ nhất trái đất, có từ thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên hoặc có thể lâu hơn. Tính đến đầu thế kỷ 21, Ấn giáo có gần 1 tỉ tín đồ trên khắp thế giới và là tôn giáo chiếm hết 80 phần trăm dân số Ấn Độ.
Gian bán các loại hạt và bột gia vị các thứ.
Một phụ nữ mở ví lấy tiền cho một gã “đại cái bang,” một “ngài” bò đang lửng thửng đi tới. Tôi chưa tận mắt thấy bò, dê, chó, khỉ bị người dân xua đuổi bao giờ. Nhìn khuôn mặt những người ở đây, kể cả người ăn xin hay tàn tật, nơi họ có một sự chấp nhận, thậm chí bình an, tâm trạng của những người có cảm tưởng rằng mình đang “trả nghiệp.”
Ra đến Dashashvamedh Ghat, sông Hằng bắt đầu hiện ra dưới chân trời.
Ghat có nghĩa là bậc cấp, muốn xuống đến bờ nước, từ chỗ nào cũng phải đi xuống hằng chục bậc cấp. Dọc theo bờ sông Hằng có đến hằng chục ghat khác nhau, Dashashvamedh Ghat này là một trong những ghat nổi bật nhất.
Ghat này được xây vào năm 1748 bởi vua Balaji Baji Rao, đời Peshwa thứ 8 của triều đại Maratha, vài thập niên sau lại được Nữ hoàng Ahilyabahi Holkar, người được dân Ấn yêu quí, xây lại vào năm 1774.
Mỗi chiều lúc sẩm tối tại đây có tổ chức Ganga Aarti, lễ cầu kinh con sông Hằng kéo dài chừng 45 phút, mỗi lần có đến hằng trăm người dự.
Rất hên tôi đặt chân đến đây sau khi những ngày festival vừa qua đi nên trên bờ dưới bến thưa thớt người như chiều ba mươi Tết.
Dưới sông, dân hành hương xuống tắm thì giờ nào cũng có họ, họ đến từ khắp mọi miền đất nước, ai thuận tiện được thì đi. Mấy đứa trẻ thời buổi này thấy camera vẫn còn đưa tay vẫy, không biết cellphone thì sao.
Áo quần sau khi tắm xong đem phơi dưới nắng và gió.
Bên kia sông là bãi cát mênh mông trải dài đến tận hàng cây cao ở chân trời, Phật nói “nhiều như cát sông Hằng” là vậy. Thấp thoáng có mấy bóng lạc đà hướng về phía bờ sông. Mùa nước lớn chắc nước phủ ngập hết thấy cát.
Sông Hằng bắt nguồn từ dãy Hy mã Lạp sơn chảy xuống ngang qua bắc Ấn và Bangladesh rồi cuối cùng đổ ra vịnh Bengal. Ở đoạn ngang qua Varanasi, sông uốn vòng cung về bên phía hữu ngạn, khiến bên lỡ bên bồi, bên kia bồi toàn cát, bên này vô số ngã đường qui về hướng sông như nan quạt, dẫn xuống từng ghat khác nhau, với hằng chục bậc cấp và lối đi đổ bê tông, hừng hực nóng và chói chang.
Đi lên hướng bắc dọc theo mé nước lại thấy thêm vài gia đình đang tắm.
Prayag Ghat.
Những gia đình sau khi tắm rửa phơi khô đồ xong, chuẩn bị hành lý về quê.
Man Mandir Ghat. Vua Raja Mansingh xứ Amer xây ghat này cùng với lâu đài và đền Hindu vào thế kỷ 16. Ghat được đặt tên theo ba mẫu tự đầu của tên họ vua. Ghat này nổi bật nhờ lâu đài lớn kiến trúc nghệ thuật mang phong cách của đền Mathura Govardhan và phong cách Rajasthani Rajput từ thời Trung cổ miền bắc. Ngoài ra còn thêm đài quan sát thiên văn, mặc dù tình trạng đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng vẫn còn gây chú ý các du khách.
Man Mandir Ghat chụp cách đây hai thế kỷ.
Thuyền chở gia đình ra sông rải tro.
Dr Rajendra Prasad Ghat.
Người Ấn thích vẽ tường, đi đâu cũng thấy, mà họ vẽ thật đẹp.
Quay nhìn lại phía sau nơi vừa đi qua là Varahi Ghat.
Rồi lại đi tiếp lên hướng bắc.
Một nhóm các phụ nữ ngồi túm lại cầu nguyện với nhau.
Varahi Ghat, được đặt theo tên nữ thần Varahi của đạo Hindu, một trong nhóm các thần mẫu.
Nhìn lui, xa xa nơi chân trời còn rất nhiều ghat không thể đi hết, phải bỏ thật nhiều thời gian mới khám phá hết những điều bí ẩn của nơi này.
Bảng gắn trên tường ghi Lalita Ghat.
Thuyền đổ khách xuống bến sau khi đưa họ đi vòng một đoạn sông.
Cầu Malviya mờ trong sương ở phía thượng nguồn.
Thuyền chở khách chạy xuôi theo gió và theo dòng nước. Lái tàu ngồi vị trí cao để dễ điều khiển khi ra vào bến.
Những cột đèn cao ban đêm chiếu sáng rực để làm lễ cầu kinh con sông cũng như tổ chức nhiều festival khác trong năm.
Giờ này thân nhân người quá cố tụ tập dự lễ hỏa táng, khói đang bốc lên ở phía trước.
Những đống lửa đang bừng cháy, tiển đưa những thân xác về với cát bụi.
Người quá cố sau khi được đưa xuống sông tắm để tẩy hết tội lỗi mới được mang lên đặt trên dàn củi lớn, làm lễ xong mới châm lửa đốt.
Đứng từ xa zoom tới, may gió không đưa khói bay về hướng mình nên không bị ngửi mùi thịt nướng cháy khét của chúng sinh.
Thảo luận
Không có bình luận