III – KUSHINAGAR (CÂU-THI-NA), ẤN ĐỘ, NƠI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN (Tiếp theo)
Khách sạn tôi ở lại có tên Rahi Pathik Niwas thuộc tập đoàn phát triển du lịch tiểu bang Uttar Pradesh, có vẻ thuộc loại xịn nhất ở vùng này, vì sáng hôm thứ nhì ngụ tại đây khi tôi rời khỏi đại sảnh để bước ra khỏi cửa khách sạn thì thấy ở bên ngoài người ta đang dựng cổng chào và trải thảm để đón rước ai đó quan trọng, có thể là một ông tướng, hoặc ông ta đang ngụ qua đêm như tôi nay họ chuẩn bị để làm cuộc phỏng vấn ông. Không lạ gì ngay từ chiều qua tôi đã thấy chừng nửa tá lính có mang tiểu liên hiện diện trong đại sảnh.
Lính mang súng tiểu liên tôi thấy quen mắt cả mấy hôm nay rồi, đầu tiên tại phi trường Indira Gandhi ở New Delhi khi vừa từ Mỹ bay đến, rồi sau đó tại các khu đông đúc, các đền đài, di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Ấn tăng cường biện pháp an ninh, nhất là khủng bố, sau vụ chạm súng xảy ra tại biên giới hai nước Ấn Hồi chỉ vài tuần trước khi tôi mua vé đi Ấn Độ.



Kushinagar là một trong những trung tâm hành hương chính của Phật tử thế giới, là nơi Phật lìa bỏ xác thân tạm và nhập Đại bát Niết bàn (Mahaparinirvana).
Khi bước vào tuổi 81, Phật giảng pháp tại Núi Linh Thứu ở Rajgir, và đi đến Nalanda ở hướng bắc, rồi Vaishali, nơi Phật thường lưu lại và giảng pháp về chân lý tối thượng, và cũng là nơi Phật giảng bài pháp cuối cùng.

Khi Phật đến một nơi có tên gọi là Pava, thì Kunda, con trai của người thợ rèn mới dâng Phật thức ăn trong đó có nấm độc. Phật vẫn nhận lấy nhưng bảo đừng ai lấy phần cho mình. Hậu quả là Phật bị lâm bệnh nặng. Đã đến lúc để Phật rời khỏi cõi Ta Bà này dù rằng ngài có thể kéo dài tuổi thọ lâu hơn.
Lúc Phật và các đệ tử đến Kushinagar, ngài tiến thẳng vào rừng cây Sala của một thương buôn giàu có cúng dâng cho Phật. Tại đó giữa cặp song thụ Sala cao vút, Thích Ca Mâu Ni nằm xuống nghiêng về phía phải theo thế sư tử, đầu xoay lên hướng bắc.
Khi được hỏi vì sao ngài chọn Kushinagar để lìa trần thì Phật cho biết có ba lý do.
Lý do thứ nhất là ở đây thích hợp để giảng kinh Maha-Sudassana Sutra. Thứ hai là vì một người tên Subhadra, người mà Phật cần gặp để giảng pháp, và người đó đạt được quả A La Hán. Lý do thứ ba là ở Kushinagar có một đạo sĩ Bà La Môn thông tuệ đáng kính, thường gọi là Doha, người có thể hòa giải tranh giành xá lợi Phật giữa các đệ tử và các vị vua, điều không thể tránh khỏi một khi Phật nhập niết bàn.

Những bậc tôn kính ở Kushinagar nghe tin Phật sắp mất liền đến đảnh lễ. Trong số họ có đạo sĩ Bà La Môn Subhadra, 120 tuổi, người rất được trọng vọng, nhưng lại là người ba lần bị Ananda từ chối không cho gia nhập tăng đoàn. Tuy vậy, Phật gọi Subhadra lại cạnh bên, giải đáp cho đạo sĩ nghe về sáu học thuyết sai lầm, và mở cho đạo sĩ thấy chân lý trong lời dạy của Phật. Subhadra xin được qui y và được Phật nhận cho vào tăng đoàn và cũng là vị sư cuối cùng được chính tay Phật lảm thọ giới qui y. Kế đó Subhadra ngồi nhập định gần bên Phật, nhanh chóng đạt quả A La Hán, rồi liền nhập niết bàn trước cả Phật.
Vào lúc cuối canh ba, Phật ba lần hỏi các đệ tử có còn thắc mắc nào về những lời dạy của ngài hay các giới luật để tu không. Nhận được sự im lặng, Phật mới nói câu nổi tiếng: “Vô thường vốn có trong mọi thứ. Nỗ lực để giải thoát chính mình bằng sự tinh tấn.” Rồi Phật nhập đại định và bước vào Đại bát Niết bàn. Trái đất rung chuyển, sao bắn vọt từ trời, mười phương bùng lửa và không gian đầy ắp tiếng nhạc trời.
Xác thân sư phụ được tắm rửa rồi đắp y thêm lần nữa, rồi được bọc bằng một ngàn tấm khăn liệm và đặt trong một quan tài bằng vật liệu quí. Trong bảy ngày, người và chư thiên cõi trời dâng cúng, sau đó giữa núi hoa và nghi ngút hương thơm, quan tài được khiêng đến nơi hỏa táng với một đoàn rước lớn. Một đống củi thơm và dầu thơm đã sẵn sàng để đốt, nhưng dù nhiều đệ tử thử nhiều lần vẫn không cháy. Một đệ tử khác của Phật có thần nhãn cho biết đó là do Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) đại đệ tử của Đức Phật cùng 500 đệ tử đang trên đường đến chiêm bái nhục thân Phật, và rằng tới khi ông đến củi mới bắt lửa. Quả vậy, khi Ma Ha Ca Diếp về đến, phủ phục xuống đất và đảnh lễ Phật thì đồng thời đống củi bắt đầu bùng cháy.

Sau khi hỏa táng xong tro cốt Phật được lựa để tìm xá lợi. Chỉ xương sọ, răng và phần bên trong lẫn ngoài vải liệm vẫn còn. Thoạt đầu tất cả tro cốt của kim thân Phật được dòng tộc Thích Ca giữ, tuy nhiên, đại diên của sáu bộ tộc khác vá một vị vua cũng đòi chia phần. Để tránh xung đột như Phật đã tiên đoán từ trước, đạo sĩ Drona đề nghị chia đều tám phần bằng nhau cho họ mang về nước. Sự phân chia được định như sau; Chia cho Ajatasattu, vua của Magadha (Ma Kiệt Đà); cho Licchavis của Vesali; cho dòng Thích Ca ở Kapilvastu, cho họ Bulis của Allakappa, cho dòng Koliyas của Ramagama, cho người Bà La Môn xứ Vethadipa, cho họ Mallas của Pava, và cho họ Malls ở Kushinagar. Tám stupa lớn được xây để giữ xá lợi. Với thời gian, dần dần các phần xá lợi lại được phân chia nhỏ hơn sau khi vua Ashoka quyết định cho xây 84 ngàn bảo tháp. Ngày nay các xá lợi được bảo quản trong các stupa khác nhau rải rác trên khắp châu Á.















Thảo luận
Không có bình luận