III – NEPAL VỚI LUMBINI VÀ KAPILVASTU (tiếp theo)
6. Kapilvastu, quê nhà của Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni Buddha)
Kapilvastu, quê nhà của Thái tử Tất Đạt Đa cũng là nơi sinh của hai vị Phật thời quá khứ: Phật Krakuchhanda ở Gotihawa và Phật Kanakamuni ở Niglihawa, khiến Kapilvastu được mệnh danh là “Đất Phật” (Land of Buddhas). Vùng đất được đặt theo tên của đạo sĩ Kapila, người khuyên hoàng thân quốc thích Koshal lưu vong đến định cư ở Tilaurakot, vùng đất màu mỡ. Dần dần những cư dân mới này trở thành người mang dòng họ Thích Ca (Sakyas) và vương quốc của họ được đặt tên là Kapilavastu (cũng có thể gọi tắt Kapilvastu). Kết quả của nhiều năm khai quật cho thấy con người đã định cư nơi đây 300 năm trước khi Phật Cồ Đàm sinh ra.
Thái tử Siddhartha đã từng sống qua 29 năm đầu đời tại đây. Tu viện tì kheo ni đầu tiên trong lịch sử Phật giáo được thành lập ở Kapilavastu. Những người đàn bà dòng Thích Ca trong đó có Hoàng hậu Prajapati Gautami (mẹ ghẻ của thái tử), Yasodhara (Gia Du Đà La) (vợ thái tử), cùng 500 phụ nữ dòng Thích Ca khác trở thành những ni cô đầu tiên, tại nơi đây.
Cách Lumbini khoảng 29 km về phía tây, nằm uy nghi dưới chân rặng Siwalik là thành phố tráng lệ Tilaurakot của vương quốc Kapilavastu, nơi có nhiều lâu đài, tường cao vườn rộng, hào sâu, bảo bọc cho một thái tử đang tuổi thanh xuân, mà định mệnh ngài về sau sẽ thay đổi mãi mãi đường hướng tâm linh của nhân loại. Tất Đạt Đa sống cuộc sống cực kỳ xa hoa, mọi ước ao đều được thỏa mãn, chưa biết khổ là gì, không biết gì xảy ra bên ngoài cung điện. Một hôm điều gì đó chợt khuấy động tâm trí thái tử, một nỗi bất an sâu đậm mà không gì có thể làm dịu bớt. Những bức tường thành che chở an toàn cho đời sống của hoàng gia bắt đầu khiến cho thái tử có cảm giác như bị nhốt trong chuồng. Ngoài các cổng thành kia, một chân lý khác đang vẫy gọi, chân lý từ trải nghiệm bản thân vượt lên trên mọi sự giàu sang, sung túc, êm ấm. Và do vậy, từ phút chốc mà dư âm còn vang dội qua nhiều thế kỷ, Siddhartha đi đến một quyết định không những thay đổi ngay chính cuộc đời ngài, mà còn thay đổi cái cảnh quan tâm linh của nhân loại. Ngài bỏ lại nhung bào, gia đình, tương lai, quay đi buông bỏ hết tất cả những gì ngài đã có.
Tilaurakot, thành phố có tường thành và hào sâu bao bọc chung quanh, một ví dụ nổi bật về kiến trúc lâu các thời đại xa xưa. Những cuộc khai quật khảo cổ tìm thấy những cổ vật quan trọng, gồm sứ xám thuộc thế kỷ 9 đến 8 trước công nguyên, gốm sứ thế kỷ 6 đến 5 trước công nguyên, và chứng tích của một lò đúc tiền. Ngoài ra, địa điểm cho thấy những kiến trúc lâu đài, đền thờ, hồ, đường xá, thành lũy bằng gạch nung, dấu tích sự sống của người thời xưa, trải dài qua 13 lớp thời gian sinh hoạt của con người, từ thế kỷ 9 đến 8 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 2 đến 3 sau công nguyên, những khám phá cho thấy Tilaurakot có tầm quan trọng lịch sử của một kinh đô.

Bốn cửa thành được nhận diện nằm dọc theo bức tường thành, mỗi cửa hướng ra một hướng chính đông tây nam bắc, nơi đó có trạm lính gát và kho vũ khí nằm cạnh bên. Cổng Đông của thành Tilaurakot là nơi thái tử bỏ cung vàng điện ngọc đi tìm chân lý giác ngộ, mang tầm quan trọng đặc biệt. Cổng Tây là lối ra vào dành cho nông dân, thương buôn, dân hành hương, và cư dân của thành phố.


7. Sagarhawa, địa điểm thảm sát dòng họ Sakya
Sagarhawa là khu vực rừng rú nơi tàn tích của một hồ cổ được khai quật vào năm 1895. Sagarhawa nằm cách Taulihawa 12 km về hướng bắc. Các nhà khảo cổ xác định được nơi bảy mươi bảy ngàn người thuộc dòng họ Thích Ca bị thảm sát bởi tay Vua Virudhaka, con trai của vua cha Prasenajita của vương quốc Koshal. Tàn tích tìm thấy ở bờ tây và nam của hồ rộng hình chữ nhật, dân địa phương quen gọi tên là Lumbu Sagar hay hồ dài, thuộc làng Niglihawa thuở trước, đó là lý do vì sao Sagarhawa còn được gọi là Lumbasagar.




Đúng như lời nguyền, vua Virudhaka đã tắm cung điện của Kapilvastu bằng máu của người dòng Sakya thay vì bằng sữa.
Hơn 100 stupa được dựng lên để tưởng niệm nơi thảm sát nhưng nay đều đổ nát hoàn toàn, cuộc khai quật đầu tiên vào năm 1897 do Ts Alois Anton Fuhrer thực hiện đã tìm thấy được tàn tích của các tu viện và của 17 stupa, gồm tám tại phần phía nam và chín ở phần phía tây của hồ.

























Thảo luận
Không có bình luận