Đến 12 giờ 48 trưa 19/5 tôi lại leo lên xe tuk tuk đi tiếp về hướng tây, hướng thành Ca Tì La Vệ, nơi cách đây hơn 2600 năm, Thái tử Tất Đạt Đa từng sống đời sống sung túc với vua cha Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya Devi.
Một mình chiếm hết băng sau chiếc tuk tuk từ Lumbini chạy đi Kapilvastu, đoạn đường dài 30 km, coi như bao nguyên xe. Lúc này mưa còn lớn, tấm bạt vỗ phần phật như buồm tàu nhưng vẫn che chắn ngon lành cho khách khỏi nước và gió. Do ngôn ngữ bất đồng nên thỉnh thoảng tôi và tài xế mới trao đổi với nhau vài điều cần thiết. 12:48 pm.
Cổng chào thành phố Taulihawa, thủ phủ của Kapilvastu. 1:14 pm.
Kapilvastu có bảy thánh tích chính được đề nghị không nên bỏ sót nếu có dịp ghé qua.
1. Kudan
Thánh tích đầu tiên do thuận đường mà ghé là Kudan, còn gọi tên là Nigrodharam, chỉ cách Taulihawa 2,5 km về phía nam. Viếng nơi này chúng ta hiểu sâu hơn thời ban đầu của Đức Phật sau khi vừa thành đạo, và hiểu rằng đây là xuất xứ của một tôn giáo gọi là đạo Phật. Khách đến đây hồi tưởng lại những biến cố lịch sử đã từng xảy ra và cảm nghiệm cái không khí tĩnh lặng trang nghiêm.
Bảng giới thiệu Kudan rỉ sét toàn bộ, ghi bằng hai thứ tiếng, phần tiếng Anh thì các chữ đánh vần sai rất nhiều. Cũng như dân Ấn, dân Nepal có vẻ không quan tâm đến ba cái lẻ tẻ đó.
Kudan có tầm quan trọng lớn trong lịch sử Phật giáo, đây là nơi mà Phật hội ngộ với phụ vương lần đầu tiên sau khi thành đạo. Cuộc gặp gỡ này đánh dấu một mốc thời gian chuyển biến trong cuộc đời của Đức Phật, cũng là lúc Ngài giảng pháp lần đầu tiên cho các tín đồ sau khi giác ngộ, trong đó có Gia Du Đà La (Yashodhara) vợ ngài và con trai La Hầu La (Rahula). La Hầu La (Rahula) được Xá Lợi Phất (Sariputra), đệ tử hàng đầu của Phật, đích thân thí phát qui y cho lúc Rahula mới lên tám.
Lối mòn dốc dẫn lên Tháp Rahula, nơi 26 thế kỷ trước, La Hầu La, con trai của Phật được Xá Lợi Phất, đệ tử hàng đầu của Phật làm lễ thí phát qui y cho. 1:24 pm.
Bên trong hoàn toàn trống trải ngoại trừ góc bên trái thấy có một bàn thờ nhỏ của đạo Hindu, không liên quan gì với di tích Phật giáo này cả. Phải chăng như đề cập trong tấm bảng rỉ sét gần cổng ra vào, rằng kết quả cuộc khai quật vào năm 1962 mới được biết địa điểm này trước đó đã từng chiếm ngự bởi đền thờ Ấn Độ giáo, cho nên dân đạo Hindu có quyền vào đây thờ cúng thần linh của họ là hợp lý.
Nhìn lên đầu chỉ thấy sợi xích dài thòng hai quả chuông nhỏ từ đỉnh tháp xuống. Chỉ thế thôi, còn lại là bức tường trơ trụi cả mọi hướng, kể cả nền đền.
Quạ ở đây có hai màu, thân thon dài, trông đẹp hơn quạ đen ở mấy xứ khác.
Những lá cờ kinh đủ màu sắc phất phơ trong gió mang những lời kinh đi khắp muôn phương.
Tàn tích tu viện do vua Tịnh Phạn cho xây để rước Phật về giảng kinh.
Một stupa nhỏ.
Một phụ nữ địa phương và một chú chó trong khuôn viên khu thánh tích.
Một thân cây mục gãy.
2. Gotihawa, nơi sinh của Phật quá khứ Krakuchhanda
Gotihawa cách Kudan chỉ 3 km, được xác nhận là một thánh tích nơi Phật quá khứ Krakuchhanda chào đời, đắc đạo, và cũng là nơi Ngài gặp cha sau khi thành Phật. Vua A Dục từng đến viếng nơi đây vào năm 249 trước công nguyên, cho dựng trụ đá và xây một bảo tháp stupa lớn để tỏ sự cung kính.
Trụ đá A Dục mà phần có khắc chữ ở phía trên bị gãy và mất luôn đã từ lâu. Trụ còn lại hiện nay cao 3,25 m, và có đường kính 83 cm. Trong nhật ký du hành của Phổ Hiền và Huyền Trang, họ tả trụ đá Asoka có tượng sư tử ở trên chóp.
Bảo tháp stupa cũng do vua A Dục xây để tỏ sự tôn kính Phật quá khứ Krakuchhanda vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Đến thời kỳ Saka và Kushna vào cuối thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đến thế kỷ 2-3 sau công nguyên, stupa được mở rộng thêm. Đường kính stupa: 22 m.
Giếng cổ tại trung tâm làng Gotihawa mà người dân hiện vẫn còn sử dụng.
Thảo luận
Không có bình luận