Một cặp gà lôi lam mào trắng sinh trưởng tại Bỉ sẽ được chuyển về Việt Nam, khởi đầu hy vọng đưa loài chim này tái hiện diện trên quê hương của nó.

Jan Dams, điều phối viên chương trình chăm sóc chim tại Vườn thú Antwerp (Bỉ), hào hứng gọi đây là “một tin tuyệt vời” mà vườn thú này muốn chia sẻ với thế giới.
Truân chuyên loài chim trĩ
Gà lôi lam mào trắng (Lophura edwardsi, GLLMT) là loài chim thuộc họ trĩ đặc hữu của Việt Nam, trong lịch sử chỉ phân bố tự nhiên ở các vùng rừng ẩm thường xanh trên đất thấp (dưới 300 mét trên mực nước biển) ở các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và thành phố Huế.
Theo bài viết trên ZOO Science ngày 19-3, dù có kích thước khá lớn, GLLMT vẫn là một ẩn số đối với giới khoa học trong một thời gian dài – tới cuối thế kỷ 19 mới được phát hiện chính thức.
Thế nhưng, loài chim này gần như vắng bóng trong tự nhiên từ năm 2000 đến nay. “Các nhà khoa học chưa bao giờ có cơ hội nghiên cứu loài chim này trong môi trường tự nhiên. Toàn bộ hiểu biết của chúng ta về GLLMT đều đến từ các quan sát tại các vườn thú hoặc từ những người thu thập chim địa phương trong quá khứ” – Dams nói.
Môi trường sống của GLLMT vốn chịu tác động nặng nề từ nạn phá rừng và hoạt động nông nghiệp. Thêm nữa, các cánh rừng miền Trung Việt Nam cũng bị hủy hoại hoàn toàn trong chiến tranh vì chất độc da cam, bom napalm gây cháy rừng. “Chính con người đã khiến loài chim này gặp muôn vàn khó khăn trong tự nhiên. Trách nhiệm của chúng tôi là khôi phục những gì đã mất” – Dams nhấn mạnh.
Năm 2024, GLLMT được xếp vào nhóm “cực kỳ nguy cấp, có thể đã tuyệt chủng trong tự nhiên” trên Sách đỏ IUCN (Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế), với số lượng cá thể ước tính ngoài tự nhiên từ 0 đến 49 con.
Thời gian cứu GLLMT khỏi tuyệt chủng không còn nhiều, song điều may mắn là vẫn chưa quá muộn. “Hiện tại, tổng số GLLMT trên toàn cầu vào khoảng 1.000 cá thể, tất cả đều được nuôi giữ trong các vườn thú hoặc thuộc những nhà nuôi chim tư nhân. Đây chính là nguồn lực quan trọng để phục hồi loài này” – Dams nói.
Toàn bộ số chim này đều có nguồn gốc từ một nhóm ban đầu gồm 26 cá thể do nhà nghiên cứu chim huyền thoại Jean Delacour mang về điền trang của ông tại làng Clères, Pháp. Từ đó, chúng được phân phối đi khắp thế giới. Đáng tiếc, chiến tranh lại một lần nữa cản trở tiến trình bảo tồn: trong Thế chiến thứ hai, quần thể GLLMT ở châu Âu gần như bị xóa sổ. Tuy nhiên, nhờ nỗ lực của một số nhà nhân giống, loài chim này đã được phục hồi, mở ra hy vọng về một chương trình tái thả thành công trong tự nhiên.
Vậy làm thế nào để cứu một loài khỏi tuyệt chủng? Điều này không hề đơn giản. Trên thực tế, đây là một dự án khổng lồ, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều yếu tố quyết định.
Tối ưu hóa đa dạng di truyền
Đa dạng di truyền đóng vai trò then chốt trong việc tái thả một loài vào tự nhiên. Quần thể có nguồn gene càng phong phú thì khả năng thích nghi với môi trường mới càng cao. Con số khoảng 1.000 cá thể trên toàn cầu – trong đó 370 con đang được chăm sóc tại các vườn thú theo chương trình quản lý quần thể EEP của Hiệp hội các vườn thú và thủy cung châu Âu (EAZA) – là nền tảng vững chắc để phục hồi GLLMT.
Tuy nhiên, không phải tất cả các cá thể đều đủ điều kiện tham gia chương trình này. Dams giải thích: “Nếu quần thể có nền tảng di truyền quá hẹp, việc tái thả sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Vì vậy, đảm bảo đa dạng di truyền là điều tối quan trọng”.
Nhóm nghiên cứu trước tiên sẽ xác định những cá thể có ý nghĩa di truyền quan trọng đối với việc bảo tồn loài và nên góp mặt trong quần thể tương lai tại Việt Nam. Họ sử dụng công nghệ giải trình tự gene tiên tiến để đánh giá độ thuần chủng của từng cá thể, sau đó tiến hành phân tích di truyền nhằm xác định phả hệ của chúng.
Dựa trên dữ liệu thu được, các chuyên gia sẽ đưa ra khuyến nghị về nhân giống: Những cá thể nào nhất định phải được đưa về Việt Nam? Con trống này sẽ phù hợp với con cái nào? Từ đây, các nhà khoa học tại Vườn thú Antwerp đã đi đến quyết định cụ thể: một cặp GLLMT sinh tại Vườn thú Antwerp nhưng đang sống tại vườn thú “anh em” Planckendael sẽ được chuyển về Việt Nam.
Cặp chim này sẽ được chăm sóc tại Việt Nam, thế hệ con của chúng sẽ được chuẩn bị cho cuộc sống ngoài tự nhiên. Cuối cùng, những con GLLMT non này sẽ được thả về rừng, khôi phục sự hiện diện của loài tại chính quê hương mình. “Đây là một tin tuyệt vời!” – Dams hào hứng.
Trung tâm nhân giống đã làm tốt nhiệm vụ, nhưng để chương trình đưa GLLMT Việt Nam hồi cố hương thật sự thành công, còn cần có môi trường tự nhiên phù hợp để cặp chim được tái thả một cách an toàn.
Dams phân tích: “Thiệt hại đối với môi trường sống tự nhiên của loài này là rất nghiêm trọng. Vẫn còn nhiều khu vực cằn cỗi, nơi cây cối không thể mọc lên do đất bị ô nhiễm nặng. Tuy nhiên, may mắn là vẫn còn một số khu bảo tồn thiên nhiên còn nguyên vẹn, nơi chúng ta có thể thả chim trở lại môi trường hoang dã một cách an toàn”.
Vẫn chưa thể vội mừng. Còn một thách thức khác: thói quen đặt bẫy động vật hoang dã của dân địa phương.
“Cần giải quyết vấn đề này trước khi tái thả GLLMT về tự nhiên. Điều này dẫn đến một yếu tố quan trọng khác: sự hợp tác với cộng đồng địa phương. Cần đảm bảo họ có nguồn thực phẩm thay thế, tích cực làm việc với họ và giúp họ hiểu được tầm quan trọng của đa dạng sinh học” – Dams nói thêm.
Về Việt Nam và xa hơn nữa
Theo kế hoạch, cặp GLLMT sẽ từ Vườn thú Planckendael về đến Vinpearl Safari Phú Quốc. Tại đây, chúng sẽ trải qua giai đoạn kiểm dịch trước khi được chuyển đến trung tâm nhân giống để nhân giống chim non, với hy vọng lứa chim con đầu tiên sẽ nở trong năm nay hoặc 2026. Khi đã đủ số lượng, những con chim non này sẽ được thả về tự nhiên.
Theo Dams, quá trình này sẽ đòi hỏi nhiều thử nghiệm và điều chỉnh. Khi quần thể GLLMT đủ lớn, các nhà khoa học sẽ tiến hành theo dõi sự di chuyển, khả năng sống sót và hoạt động sinh sản của chúng thông qua thiết bị định vị. Dữ liệu thu thập được sẽ giúp các chuyên gia điều chỉnh chiến lược tái thả sao cho hiệu quả nhất.
Bên cạnh Vườn thú Antwerp, chương trình này còn có sự tham gia của gần 20 đối tác quan trọng như nhóm cố vấn phân loại bộ gà (Galliformes TAG) thuộc EAZA, Hiệp hội Chim trĩ thế giới, Tổ chức BirdLife International, cùng các vườn thú và tổ chức bảo tồn động vật hoang dã.
Ngoài công việc ở Vườn thú Antwerp, Dams còn là chủ tịch Galliformes TAG. “Tại Việt Nam, chúng tôi hợp tác với Viet Nature, một tổ chức phi chính phủ do bà Phạm Tuấn Anh lãnh đạo. Chính bà là người đầu tiên liên hệ với cộng đồng vườn thú châu Âu, và từ đó, nhóm Galliformes TAG của chúng tôi đã kết nối với họ, mở đường cho việc xây dựng kế hoạch hành động này” – ông chia sẻ.
Các tổ chức này hợp tác trong khuôn khổ Nhóm phục hồi GLLMT, cũng do Dams chủ trì. Theo Dams, việc tái thả được xem là thành công nếu có ba quần thể GLLMT được duy trì ổn định tại ba khu vực khác nhau. Việc phân tán quần thể ra ba địa điểm giúp giảm rủi ro: nếu một khu vực gặp vấn đề, hai quần thể còn lại vẫn có thể tồn tại an toàn.
Thành công của dự án có thể mang lại lợi ích rộng lớn hơn. “Bằng cách tập trung bảo tồn GLLMT – một loài rất được quan tâm trong cộng đồng bảo tồn – chúng tôi có thể bảo vệ cả một khu vực sinh thái quan trọng, nơi sinh sống của nhiều loài khác cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng” – Dams nói.
GLLMT chia sẻ môi trường sống với mang lớn (Muntiacus vuquangensis) và voọc chà vá chân đỏ (Pygathrix nemaeus). Thậm chí, sao la cũng từng được phát hiện trong khu vực này. “Thông qua dự án bảo tồn GLLMT, chúng ta có cơ hội bảo vệ không chỉ một loài, mà còn cả hệ sinh thái và cộng đồng địa phương. Thật tuyệt vời khi được góp phần vào một dự án như thế này” – Dams kết luận.
Vườn thú Antwerp và Vườn thú Planckendael là hai trong số bốn tổ chức thuộc Hiệp hội Hoàng gia Vườn thú Antwerp (KMDA), bên cạnh Khu bảo tồn thiên nhiên De Zegge và nhà hát Koningin Elisabethzaal. Thành lập năm 1843, KMDA hiện là một trong những đơn vị dẫn đầu trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên và nghiên cứu khoa học.
Vườn thú Antwerp còn là một trong những vườn thú khoa học đầu tiên trên thế giới, với viện nghiên cứu riêng mang tên Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn (CRC). Sau hơn 20 năm, CRC đã phát triển thành một trong những trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới, với các nhà khoa học và chuyên gia tiên phong trong các lĩnh vực như di truyền bảo tồn, hành vi và phúc lợi động vật, sinh học tiến hóa và y học thú y.
Các thành tựu gần đây của KMDA: hỗ trợ bảo tồn linh dương vằn sừng nhỏ (Gazella leptoceros) có nguy cơ tuyệt chủng tại Tunisia; hạn chế săn bắn động vật hoang dã tại Cameroon, đặc biệt là đối với tinh tinh và khỉ đột; siêu âm tim cho rùa Astrochelys radiata giúp cải thiện chẩn đoán và điều trị loài này trên phạm vi toàn cầu.
Trúc Anh
Gà lôi lam mào trắng : Để có cuộc hồi hương thực sự
“Ai đưa tôi đi chụp được con gà lôi lam mào trắng sinh sống trong tự nhiên, tôi tặng ngay 10.000 USD”. Tuyên bố của một nhiếp ảnh gia nổi tiếng trong lĩnh vực chụp ảnh thiên nhiên hoang dã, cho thấy gà lôi lam mào trắng hiếm như thế nào.

Gà lôi lam mào trắng (GLLMT) được mô tả lần đầu tiên từ cuối thế kỷ 19. Đó là năm 1896, từ 4 cá thể do các nhà truyền giáo Pháp thu được tại Quảng Trị (mẫu tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên quốc gia, Paris, Pháp).
Kiếm tìm và hy vọng
Từ năm 1923 đến 1929, nhà khoa học Jean Delacour tổ chức 7 chuyến nghiên cứu ở Đông Dương và thu được 64 cá thể, trong đó 28 cá thể được vận chuyển sang Pháp. Từ nguồn gốc này, có hơn 1.000 cá thể được nhân lên trong điều kiện nuôi nhốt.
Mục đích đưa về Pháp khi đó của nhà tự nhiên học Jean Delacour là để phục vụ nghiên cứu. Nếu không có chuyến “xuất cảnh” ấy, có lẽ giờ đây chúng ta đã không thể thấy được GLLMT.
Tại Việt Nam, Vườn thú Hà Nội hiện là cơ sở duy nhất đang lưu giữ nguồn gene quý hiếm này, nguồn gốc cũng là châu Âu đưa về, từ 28 cá thể đã “lưu vong” từ xưa.
Năm 1996, Tổ chức Bảo tồn chim quốc tế (BirdLife International) tái phát hiện GLLMT trong tự nhiên thông qua các mẫu vật mà lực lượng kiểm lâm thu được trong quá trình ngăn chặn buôn bán động vật hoang dã. Tuy nhiên, chỉ bốn năm sau khi tái xuất hiện, loài chim này lại “biến mất”.
Bất chấp các nỗ lực tìm kiếm bằng nhiều phương pháp, bao gồm hơn 130.000 ngày bẫy ảnh tại những địa điểm tiềm năng nhất trong vùng phân bố lịch sử của nó, GLLMT đã không được ghi nhận trong tự nhiên kể từ năm 2000. Ngay cả những người lạc quan nhất cũng phải chấp nhận rằng quần thể GLLMT, nếu còn sót lại đâu đó trong tự nhiên, thì số lượng cũng rất nhỏ và phân mảnh. Nói cách khác, xác suất tuyệt chủng của GLLMT rất cao.
Theo các chuyên gia, các mối đe dọa chính đối với sự tồn tại loài này là tình trạng mất sinh cảnh sống phù hợp do diện tích lớn rừng đất thấp đã bị tàn phá trong chiến tranh, sau đó lại tiếp tục được chuyển đổi thành đất nông nghiệp, đất ở. Thêm nữa, tình trạng săn bẫy kéo dài đã làm nhiều cánh rừng trở thành “rừng rỗng”, vắng bóng chim thú.

GLLMT kiếm ăn, làm ổ và đẻ trứng trên mặt đất, mỗi năm chỉ đẻ một lứa vào cuối xuân, trung bình từ 4-6 trứng, thực sự không nhiều để chống chọi với các mối nguy hiểm rình rập hằng ngày trong rừng thẳm từ các loài thiên địch và cả con người, trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu ngày càng bất định.
Trong khi đó, quần thể nuôi nhốt của loài GLLMT ngày càng già đi và có thể mất đi một số tập tính hoang dã sau gần một thế kỷ sống dưới sự chăm chút của con người. Vì thế, thời gian còn lại để phục hồi GLLMT không phải là vô tận, nên phải hành động ngay để cứu loài này trước khi quá muộn!
Từ hơn mười năm nay, Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt (Viet Nature), tiền thân là Chương trình tại Việt Nam của Tổ chức Bảo tồn chim quốc tế cùng các đối tác địa phương, các chuyên gia bảo tồn và các nhà hảo tâm trong và ngoài nước đang nỗ lực chuẩn bị cho hành trình trở về quê hương của loài này. Tính từ những ngày đầu tìm kiếm, tái phát hiện loài “gà lạ” này trong những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, đã tròm trèm 30 năm nỗ lực đưa GLLMT trở lại thiên nhiên.
Cố hương thực sự
Ba địa điểm với sinh cảnh phù hợp nhất tại Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu – Khe Nước Trong (Quảng Bình), Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Huế) và Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) được lựa chọn và chuẩn bị cho việc tái thả GLLMT.
Các địa điểm này phải được tuần tra bảo vệ thường xuyên để loại bỏ hoàn toàn nguy cơ săn, bẫy và các tác động khác làm xáo trộn nơi sinh sống của các loài động vật hoang dã.
Đồng thời, các cuộc khảo sát bằng phương pháp bẫy ảnh cũng được tiến hành định kỳ để giám sát các loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loài thiên địch của GLLMT như cầy, rắn, các loài chim ăn thịt…

Trung tâm nhân nuôi bảo tồn các loài chim trĩ quý hiếm do Viet Nature khởi xướng đã từng bước được thành hình trên diện tích đất gần 4,5ha tại xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình với công suất tối đa 300 con gà trưởng thành.
Hiện nay, khối chuồng nhân nuôi đầu tiên rộng gần 800m2 đã hoàn thành, có thể chứa tối đa 10-12 cặp gà, sẵn sàng đón nhận gà giống bố mẹ sẽ chuyển từ châu Âu về trong nửa đầu năm 2025. Trung tâm sẽ áp dụng biện pháp nhân nuôi sinh sản hoàn toàn tự nhiên, để cho gà mẹ tự ấp và nuôi con, huấn luyện lại cho gà các tập tính hoang dã, và thích nghi lại với khí hậu nhiều mưa, nắng, gió của quê hương miền Trung.
Dự kiến, khoảng năm 2027, những “chiến binh” GLLMT đầu tiên sẽ được thả thử ra ngoài thiên nhiên và giám sát tại các địa điểm đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, không còn săn bẫy hay tác động có hại khác của con người.
Chương trình phục hồi GLLMT sẽ được coi là thành công khi tạo dựng được ít nhất ba quần thể tồn tại bền vững trong tự nhiên, mỗi quần thể tối thiểu 200 cá thể trưởng thành. Đây sẽ là một hành trình học hỏi của cả GLLMT và các nhà bảo tồn, nhưng nếu thành công, chúng ta sẽ làm nên lịch sử, một kết thúc có hậu cho hơn một thế kỷ thăng trầm cùng đất nước.
Hành trình trở về này rất cần sự đồng hành và sẻ chia của cộng đồng, của các nhà hảo tâm, của tất cả những ai quan tâm đến số phận của loài GLLMT ở trong và ngoài nước.
Có thể nói, để đi đến được giai đoạn này là nhờ thành quả của một chương trình nghiên cứu khoa học nghiêm khắc và bền bỉ, có sự hỗ trợ của chuyên gia bảo tồn thế giới và sự góp sức của các cơ quan địa phương cũng như các tổ chức khoa học và xã hội trong nước.
Giai đoạn tiếp theo sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự chung tay góp sức của cộng đồng. Công sức của các nhà khoa học, các tổ chức trong và ngoài nước sẽ đổ sông đổ biển nếu người Việt chúng ta không thành công với việc chấm dứt nạn săn bẫy, phá rừng…
Dĩ nhiên, các tổ chức tham gia vào dự án cũng phải lường hết những bất trắc để có biện pháp ngăn ngừa. Ví dụ, những người trực tiếp được huấn luyện bảo vệ GLLMT khi tái thả ra tự nhiên sẽ là những người địa phương, được đào tạo, huấn luyện kỹ càng vì sẽ không ai làm tốt hơn chính người bản địa. Đồng thời, cũng phải có vùng đệm để bảo vệ từ xa cho khu vực tái thả.
Hy vọng chúng ta sẽ thúc đẩy được những hành động thiết thực như chấm dứt tiêu thụ chim thú hoang dã, dạy và làm gương cho trẻ con về việc cần phải bảo vệ sự đa dạng của cây cỏ chim muông. Và một ngày không xa, những cố gắng đó sẽ trả lại cho thiên nhiên những gì vốn thuộc về nó…
*Tác giả Phạm Tuấn Anh là giám đốc Viet Nature.
(Nguồn : cuoituantuoitre.vn)


Thảo luận
Không có bình luận