//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Giới thiệu sách, Nhân vật

Đọc truyện ngắn ‘Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng’ của Khánh Trường

Trần Doãn Nho

Nhà văn Khánh Trường qua đời ngày 29 Tháng Mười Hai, 2024, để lại nhiều tác phẩm hội họa, thơ và tập truyện ngắn.

Tôi, tuy không thân với anh như nhiều bạn văn khác, nhưng là một cộng tác viên khá đều đặn của Hợp Lưu, tạp chí đã để lại một dấu ấn đậm nét trong văn chương hải ngoại. Bài viết này như là một nén nhang thắp muộn tưởng niệm anh, một nhà văn sống hết mình với văn chương.

Thế giới truyện ngắn của Khánh Trường là một thế giới bầm dập. Hầu hết các nhân vật chính của anh đều là những người bị bỏ rơi, bị thiếu hụt, bị khinh bỉ và bị hành hạ cả thể chất lẫn tâm thần, có nhân vật hầu như bị đẩy đến mức cuối cùng của sự chịu đựng. Cách đối phó duy nhất của họ, do đó, không hẳn là một thái độ có ý thức, mà chỉ là những phản ứng có điều kiện (với hoàn cảnh và với tha nhân) để tồn tại.

“Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng” chứa đựng một số nét điển hình như thế trong văn chương Khánh Trường.

***

Nhân vật chính trong truyện xưng “tôi” là một cô gái tật nguyền, có “đôi chân như hai nhánh tre gầy cong vòng với hai bàn chân chân thiếu ngón.” Thời thơ ấu sống trong ngôi nhà nhìn ra cánh đồng, nên ngày nào cô cũng nhìn thấy bọn trẻ con cùng lứa chạy nhảy chơi đùa vui vẻ ở bên ngoài. Tật nguyền thể xác, từ đó, trở thành và đi đôi, với tật nguyền tâm lý.

Khi nhìn trẻ con chơi, cô “thèm được đến đó, thèm chạy nhảy nói cười, thèm hòa nhập vào không khí tươi khỏe hân hoan kia.” Thèm mãnh liệt đến nỗi có lúc quên bẵng đôi chân tật nguyền, cô “chồm người đứng dậy” và “mất thăng bằng ngã nhào,” khiến cô phải “bò nhoài trên nền đất ẩm, như một con chó bị trọng thương lê lết vật vã từ góc này qua góc kia của chái hiên với một cái đầu đã điên loạn vì khổ đau.”

Nhưng đau khổ nhất là bị những người thân yêu của mình phân biệt đối xử, mà nặng nề nhất, lại xuất phát từ người mẹ ruột của cô. Ngoài việc xem cô là một gánh nặng, bà còn ghét cô như một cách trả thù đối với “người cha ruột mơ hồ nào đó của tôi,” một “thằng khốn nạn” ăn chơi trác táng, đưa đến hậu quả là bà phải cho ra đời một đứa con “dở người dở ngợm.”

Với cô, “Mẹ, trong tuổi thơ tôi đồng nghĩa với một hung thần, một phù thủy đầy bùa phép quyền năng. Mẹ, trong tuổi lớn tôi là một người đàn bà bản chất đầy ác tính.” Đáp trả lại, cô cũng thù mẹ vô cùng. “Cùng nỗi đau đớn và sợ hãi, trong lòng tôi dấy lên một niềm căm thù dữ dội. Chính niềm căm thù này đã biến tôi trở thành lì lợm.” Mối thù âm thầm này sâu đến nỗi cô luôn mong mẹ cô “bị rắn độc cắn chết,” nằm “sóng soài trên mặt đất, co giật liên hồi, da tím bầm, mắt trợn trắng đứng tròng, bọt mép sủi tăm hai bên khóe miệng…”

Thái độ này có phần dịu bớt sau khi bà lấy một người đàn ông khác. Ông “mang đến cho mẹ nguồn nhiên liệu là tình yêu để bà thắp sáng lại ngọn lửa thanh xuân tưởng chừng tắt ngấm bao năm,” đồng thời lòng tốt của ông cha dượng đối với đứa con riêng của vợ mang đến cho cô chút ấm lòng. Cô xem ông như là người cha thật của mình.

Tuy nhiên, sau khi cả gia đình vượt biên ra sinh sống ở nước ngoài, thì quan hệ gia đình dần dần đổi khác. Là một người đàn bà có nhan sắc, bà “dễ dàng và nhanh chóng hội nhập vào đời sống mới,” từ đó, “bước qua một giai cấp khác lúc nào không hay.” Ngược lại, cha thì “cứ đứng mãi một vị trí, trở nên lạc hậu và có cơ nguy bị đào thải.” Từ khó chịu, bà đi đến chỗ xem thường cha, và cuối cùng, trở nên ngang ngược, hỗn hào. Ông cắn răng nhịn nhục, “trở nên một người đàn ông nhu nhược, sợ vợ.” Cũng như cô, “ông là một người cô đơn và vô dụng.”

Đồng bệnh tương lân. Sau những lúc hai người gây gổ, thì cha và cô thường tìm đến nương tựa bên nhau. “Chúng tôi nhìn thấy nhau và cảm thông nhau. Tôi thương ông. Ngoài tình thương của một đứa con dành cho bố, tôi còn thấy ở ông hình ảnh của một người đàn ông lý tưởng. Ông rộng lượng, vị tha, có tâm hồn. Ông xứng đáng để đón nhận cách cư xử khác hơn cái cách mẹ đang làm.”

Sự gần gũi này dần dần phát sinh ra một tình huống hoàn toàn bất ngờ. Trong lúc ông cha dượng luôn luôn cư xử với cô như con gái ruột, thì ngược lại, cô “có một mẫu đàn ông để nghĩ về.” Cô thú nhận là, một đứa con gái 20 tuổi, “dù tật nguyền xấu xí vẫn là người bình thường về mặt tâm trí,” nghĩa là vẫn có những rung động tình cảm và thân xác.

Ngồi bên nhau, “Cả hai đều im lặng, sự im lặng có khi kéo dài năm mười phút. Qua sự im lặng đó, tôi với ông đều như đã tỏ bày với nhau rất nhiều (…) Ông ôm đầu tôi vào ngực, vuốt nhẹ bàn tay trên mái tóc còi cọc của tôi, thở dài, nhưng vẫn không nói lời nào. Tôi khóc, rất lâu, nước mắt thấm ướt ngực bố. Bao nhiêu năm tháng đã qua, từ lúc bập bẹ tập nói cho đến ngày hôm nay, đã là thiếu nữ, tôi chưa một lần thực sự hạnh phúc.”

Khi dọn về chỗ ở mới, một căn nhà ở ngoại ô thành phố tọa lạc bên cạnh một khu công viên yên tĩnh, cô nhớ đến ngôi nhà tiếp giáp với cánh đồng ngày nào. Hồi đó, nhìn ra cánh đồng, chứng kiến cảnh hai con chó làm tình với nhau, “tôi bàng hoàng quên cả đau nhức, sợ hãi” và để lại “một ấn tượng mãnh liệt khắc đậm trong cân não.” Bây giờ, nhìn ra khu công viên, cô “theo dõi từng cặp tình nhân, thả hồn theo mọi hành động của họ và mơ mộng.”

Cô cảm thấy ông cha lại gần, “siết chặt tôi vào ngực, vòng tay bố rắn chắc, tôi có cảm tưởng từng lóng xương, từng sợi gân trong thân thể nhão ra, mềm nhũn. Tôi run lên. Miệng mở ra, tôi áp môi lên khoảng ngực bố, khoảng ngực với lớp vải áo đã ướt sũng nước mắt. Và tôi lại rùng mình. Mùi mồ hôi đàn ông đầy ngập khứu giác…”

Rồi cái gì đến thì phải đến. “Tôi ngậm lớp vải ướt sũng nước mắt giữa hai hàm răng. Tôi thèm ngậm sâu hơn, xuyên qua lớp vải, khoảng da thịt căng mềm ngực bố. Từ bao giờ, hai cánh tay tôi đã quàng quanh người ông, ngực tôi ép sát, khuôn ngực trinh nữ nhọn cứng, hai đầu vú cạ trên lớp vải, nhột điếng.” (…) “Tôi nói, vấp váp. Tôi nói, mê loạn. Tôi nói, điên dại. Bố đẩy tôi ra, nhìn xoáy vào mắt tôi, tia nhìn vừa kinh ngạc, vừa xót thương. Tia nhìn khiến cơn điên trong tôi trào vỡ. Tôi chồm tới, ôm siết bố. Hai cánh tay tôi như được tăng cường thêm sức mạnh, tôi cuống quýt ghì chặt mặt bố vào ngực, khuôn ngực con gái, khuôn ngực dậy thì, khuôn ngực căng nhức những đêm thao thức. Tôi nghe rõ hơi thở bố dồn dập rối loạn, phà nóng sau lớp vải mỏng.”

Trong lúc ông cha cố chống cự lại những ham muốn của mình, thì cô muốn cha “phải thua, bố phải đầu hàng, bố phải ngả vào ước muốn của tôi.” Rủi thay, trong lúc đó, mẹ cô thình lình xuất hiện, chứng kiến tất cả. Chẳng hề sợ hãi, “Tôi ngước nhìn bà, thách thức. Tia nhìn tóe ra hàng nghìn tia lửa thù hận. Tôi thấy mẹ rùng mình, bà úp mặt vào hai bàn tay, bật khóc. Lần đầu tiên mẹ khóc. A, mối hận lòng của tôi, như thế, đã được trả. Bà phải trả chứ, mẹ đã vay của tôi quá nhiều.” Cô lạnh lùng chờ đợi một màn thịnh nộ mới của người mẹ.

Nhưng không! Hóa ra, tất cả những gì diễn ra, chỉ diễn ra trong trí tưởng tượng của cô gái, khi cô mải mê nhìn cặp tình nhân say đắm ôm nhau trong công viên.

“Tôi bàng hoàng đưa tay sờ má, vuốt dọc bàn tay xuống khuôn ngực lép. Chung quanh tôi không một tiếng động ngoài tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường. Mẹ có lẽ đã đi làm, cha có lẽ còn đang ngủ, hai đứa em có lẽ đã đến trường. Chỉ còn một mình tôi và một cái đầu đậm đặc những ảnh tượng tật nguyền.”

***

Truyện ngắn đề cập đến sự ức chế về tình cảm và tình dục, một đề tài điển hình của văn chương phân tâm, một xu hướng đã được khai thác nhiều ở Tây phương vào nửa đầu thế kỷ 20, sau khi học thuyết phân tâm của Freud ra đời. Khánh Trường không hề giấu giếm dụng ý của mình. Chính nhân vật “tôi” (cô gái) đã nói rõ trong truyện: “Tôi lờ mờ hiểu sự xúc động không hẳn bắt nguồn từ tình cảm của một đứa con đối với bố, hình như bên cạnh nỗi đau còn có một ước muốn tối tăm nào đó đang dấy lên. Một ước muốn tôi không dám triển khai. Nó cũng què quặt và bất toàn như chính con người tôi.”

“Ước muốn tối tăm!” Rõ ràng là Khánh Trường muốn ám chỉ đến cái thường được mệnh danh là “libido” trong phân tâm học. Một cô gái tật nguyền không hề được cắp sách đến trường lại có thể tự đánh giá về bản thân một cách tường tận như thế quả là một điều hiếm thấy, nếu không muốn nói là siêu việt!

Dẫu vậy, Khánh Trường dừng ngang ở đó, trong lãnh vực tưởng tượng. Nhờ đó, tuy chứa đựng khá nhiều chi tiết dục tính táo bạo, câu chuyện không bị đẩy đi xa, trần trụi hơn, đến chỗ bế tắt như ở trong một số truyện khác của anh. Anh viết: “Nắng thu gọn bóng mát của tàng lá chung quanh gốc cây. Hai đứa trẻ đuổi nhau, chúng chạy về phía tôi. Ðến chỗ hàng rào sắt ngăn chia phần đất của công viên với khu vực căn nhà, thằng bé trai bắt kịp đứa con gái. Chúng ngã nhào trên thảm cỏ mượt. Cả hai cùng cười lớn. Tiếng cười dội vang trong bầu khí yên tĩnh. Buổi trưa bên ngoài cửa sổ rực rỡ nắng.”

Những dòng kết thúc này khiến “Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng” – dù có phần bất ngờ và đôi khi hơi gượng ép ở một vài chi tiết trong các diễn biến của truyện – đượm nét nhân văn. 


Khánh Trường tên thật là Nguyễn Khánh Trường, sinh năm 1948, tại Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Qua đời ngày 29 Tháng Mười Hai, 2024, tại Fountain Valley, California, Hoa Kỳ.

Khánh Trường sáng lập, điều hành, chủ biên tập san văn học nghệ thuật biên khảo Hợp Lưu. Số 1 ra Tháng Mười, 1991, trực tiếp trông coi từ 1991 đến 2002. Sau hơn 10 năm làm việc cật lực, tới số 66 (Tháng Tám và Tháng Chín, 2002), Khánh Trường bị bạo bệnh (ba lần tai biến mạch máu não và bị ung thư thực quản), phải giao tờ báo lại cho Phùng Nguyễn và Đặng Hiền.

Tác phẩm đã xuất bản: Tập truyện “Có Yêu Em Không?” (Tân Thư, 1990), “Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng” (Tân Thư, 1991), “Chung Cuộc” (Tân Thư, 1997), “Truyện Ngắn Khánh Trường” (hai tập) (Nhân Ảnh, 2016).

Có mặt trong tuyển tập: “20 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995” (Đại Nam, 1995). Thơ: “Đoản Thi Khánh Trường” (Sống Mới, Hoa Kỳ, 1987). Hội họa: “Khanh truong Paintings,” sách tranh (Nhân Ảnh, 2018).

Ngoài viết văn, anh còn là một họa sĩ, nhà thơ và chủ báo của một tạp chí văn chương độc đáo của hải ngoại là Hợp Lưu.

(Nguồn : nguoi-viet.com)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục