//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Nobel Văn Chương, Truyện Dịch

Xứ tuyết * Yasunari Kawabata

Con tầu ra khỏi con đường hầm dài và bắt đầu đi vào xứ tuyết. Mặt đất trắng xoá dưới nền trời đêm đen tối. Tới một nhà ga nhỏ, tàu từ từ đỗ lại.

Người con gái ngồi phía bên kia lối đi đứng dậy bước sang mở cửa sổ ngay trước mặt Shimamura. Khi tuyết lạnh ùa vào trong toa. Cô gái nghển cổ ra ngoài kêu vọng người xếp ga như gọi một người nào ở xa lắm.

Người xếp ga chậm rãi bước trên tuyết tiến lại, tay cầm chiếc đèn bão.

Khuôn mặt hắn chìm sau chiếc khăn quàng cổ lên tới mũi, hai vành mũ lông cụp xuống kín mang tai.

Lạnh dữ nhỉ, Shimamura nghĩ thầm. Nhìn ra ngoài, chàng chỉ thấy màu tuyết trắng biến dần trong đêm tối tới triền núi rải rác đó đây những căn nhà trại thấp. Có lẽ đó là cư xá nhân viên hoả xa.

Người con gái gọi lớn. “Bác ơi, cháu Yoko đây”.

“Yoko đấy à? Về sớm thế cháu? Lại bắt đầu lạnh rồi đấy.”

“Thưa bác, cháu nghe nói anh cháu làm việc ở đây. Xin cảm ơn bác đã giúp đỡ”.

“Ở đây vắng vẻ lắm. Con trai như cậu ấy chịu không nổi đâu.”

“Anh cháu còn trẻ người non dạ, xin bác hết lòng dạy bảo.”

“Có sao đâu, cậu ấy làm việc được lắm. Tuyết thế này chắc công việc rồi ra bề bộn nhiều. Năm ngoái tuyết nhiều đến nỗi tàu bị tuyết lở làm nghẽn đường luôn luôn. Bà con ở đây cứ phải nấu cơm cho khách ngày này qua ngày khác.

“Trông bác có vẻ mặc nhiều áo nhỉ. Anh cháu biên thư nói anh ấy vẫn chưa phải mặc áo len”.

“Bác phải mặc bốn lần áo mới thấy ấm. Còn các cậu à, cứ thấy lạnh là bắt đầu nhậu rồi. Thế là cảm hàn nằm la liệt cả lũ kia kìa”. Vừa nói, ông vừa ve vẩy chiếc đèn về phía những căn nhà trại.

“Anh cháu có nhậu không bác?”

“Theo bác biết thì không có đâu.”

“Bác về nhà bây giờ hở bác?”

“Bác đi bác sĩ bây giờ đây. Bị thương chút xíu.”

“Bác phải cẩn thận, nghen bác?”

Người xếp ga vẻ rét mướt trong chiếc áo dạ choàng ngoài kimono quay bước đi có vẻ vội vã. Ông nói vọng lại phía sau. “Giữ mình cẩn thận nghe cháu.”

Yoko đưa mắt nhìn khắp sân ga phủ đầy tuyết. Nàng gọi “Anh cháu có đây không bác? Bác coi chừng giùm anh cháu, nghe bác.”

Giọng nói tuyệt đẹp của người con gái ngân nga cao vút như từ đêm tối vọng lại trên mặt tuyết, nghe phảng phất buồn. Khi tàu chuyển bánh, nàng vẫn còn ngả người ra phía ngoài của sổ gọi với người xếp ga đang bước dọc đường rầy. “Bác bảo giùm anh cháu được nghỉ nhớ về thăm nhà.”

“Được, bác sẽ bảo.”

Người con gái đóng cửa sổ lại và lấy hai bàn tay áp vào đôi má ửng đỏ quay về chỗ.

Trên triền núi tại chỗ này có ba máy ủi tuyết để chuẩn bị cho những trận tuyết lớn sắp tới. Cũng có cả một hệ thống báo động ở hai đầu đường hầm phòng khi tuyết lở chặn mất đường tầu. Năm ngàn công nhân lúc nào cũng sẵn sàng để dọn tuyết, chưa kể hai ngàn thanh niên của các đội cứu hoả tình nguyện có thể được huy động khi cần.

Một nhà ga nhỏ, chẳng bao lâu nữa sẽ bị chôn vùi dưới tuyết. Đó là nơi anh trai người con gái có tên là Yoko sẽ đến làm việc. Vừa nghĩ, Shimamura vừa thấy mình chú ý đến cô gái nhiều hơn.

Chàng vẫn cho nàng là một người con gái. Dáng dấp rõ là một thiếu nữ chưa chồng. Thật ra Shimamura cũng không làm sao biết được nàng liên hệ thế nào với người đàn ông đi cùng với nàng. Cung cách họ đối xử với nhau có vẻ như một cặp vợ chồng. Tuy nhiên người đàn ông rõ ràng là đang đau nặng, mà tật bệnh thường khiến cho một người đàn ông và một người đàn bà gần gũi nhau hơn. Sự chăm sóc càng nhiệt tình bao nhiêu, hai người lại càng có vẻ vợ chồng bấy nhiêu. Một người con gái săn sóc một người đàn ông hơn mình nhiều như một người mẹ, trông xa ai chẳng bảo là vợ người ấy?

Nhưng trong trí óc, Shimamura đã tách rời người con gái khỏi người đàn ông. Qua dáng dấp và cử chỉ, chàng đã nhất quyết nàng là một người con gái chưa chồng. Ý tưởng ấy có lẽ đã bắt nguồn từ những cảm nghĩ riêng tư sâu sắc kể từ phút chàng ngồi ngắm Yoko dưới một góc cạnh lạ lùng.

Lúc đó mới trước đây ba tiếng đồng hồ. Shimamura đang ngồi buồn không biết làm gì, chàng lơ đãng nhìn ngón tay trỏ bàn tay trái của mình co vào, duỗi ra. Chàng tự nhủ, dường như chỉ có bàn tay này, chỉ có sự vuốt ve của những ngón tay này là còn giữ được một kỷ niệm trực tiếp và sống động, một ký ức nóng bỏng về người đàn bà mà chàng sắp gặp lại. Chàng cố gợi lại một hình ảnh, nhưng vô ích, người đàn bà đã tan biến mất trong tâm trí chàng. Càng cố nhớ lại, chàng càng thấy nàng xa dần và không còn để lại chút gì có thể bấu víu. Trong sự mơ hồ ấy, chỉ có một bàn tay trái này đặc biệt ngón trỏ này như hãy còn đẫm ướt trong ve vuốt, là dường như còn lôi kéo chàng về được với nàng từ xa vời vợi. Cái cảm giác nóng hổi sống động ấy làm chàng ngạc nhiên và bối rối. Chàng đưa bàn tay lên gần mặt rồi gạt nhanh một lần thẳng trên khuôn kính mờ đục. Con mắt một người đàn bà hiện lên chập chờn trước mặt làm chàng suýt kêu lên vì kinh ngạc. Nhưng đó chỉ là một giấc mơ trong giây phút mơ màng. Định thần lại, chàng thấy đó chỉ là hình ảnh của người thiếu nữ ngồi phía bên kia phản chiếu trong kính. Bên ngoài trời đã xẩm tối và trong toa lầu đèn đã tắt khiến khuôn cửa kính trở thành tấm gương. Hơi nước đọng đã làm tấm gương mờ đục cho đến khi chàng vạch một lằn ngang.

Con mắt mà Shimamura đã nhìn thấy tự nó có một vẻ đẹp lạ lùng, nhưng chàng giả bộ người du khách buồn bã ghé mặt sát cửa sổ như để nhìn phong cảch bên ngoài rồi lấy tay xoá hết hơi nước còn đọng trên mặt kính.

Người con gái ngả người về phía trước, cứ nhìn người đàn ông trước mặt nàng một cách chăm chú. Do sự căng thẳng ở đôi vai người con gái qua tấm gương phản chiếu, Shimamura chợt hiểu rằng cái ánh mặt dữ dội của nàng đang nhìn chằm chằm không chớp là tại sự chú ý mãnh liệt. Người đàn ông nằm gối đầu lên cửa sổ, đôi chân duỗi ra đặt trên ghế phía trước mặt, bên cạnh người con gái. Đó là một toa tầu hạng ba. Cặp trai gái ấy không ngồi cùng một hàng ghế với Shimamura ở phía bên kia mà ngồi ở một hàng trên, thành thử trong tấm kính gương, chàng chỉ thấy nửa đầu nhìn nghiêng đến ngang tai của người đàn ông.

Còn người con gái vì ngồi đối diện chéo góc với chàng nên Shimamura thật ra vẫn có thể nhìn nàng thẳng được. Tuy nhiên lúc họ bước lên toa, cái vẻ lạnh lùng soi mói trong sắc đẹp của người con gái đã khiến chàng sửng sốt và bẽn lẽn đưa mắt nhìn xuống. Chàng chỉ kịp thoáng nhìn thấy những ngón tay gầy guộc và trắng bệch của người đàn ông bám chặt lấy những ngón tay của nàng. Chàng quay mặt nhìn đi chỗ khác và như có điều gì khiến chàng không dám nhìn về phía họ nữa.

Gương mặt người đàn ông trong tấm kính gợi cho chàng một vẻ thoải mái, yên chí, có lẽ vì cái nhìn của hắn đưa thẳng xuống và dừng lại trên phía ngực người con gái. Sự yếu đuối của hắn tạo nên một vẻ hoà hợp và thăng bằng dịu dàng giữa hai dáng người cùng mỏng manh như nhau. Hắn nằm gối lên một đầu của chiếc khăn quàng cổ, đầu khăn kia vắt lên má bịt chặt lấy miệng như một cái mặt nạ. Thỉnh thoảng chiếc khăn lại tuột ra hoặc xô lên che mất mũi, nhưng chẳng cần hắn nhúc nhích ra hiệu, người con gái đã sắp lại cho ngay ngắn một cách ân cần, dịu dàng. Sự việc ấy cứ diễn đi diễn lại hoài một cách máy móc khiến cho Shimamura ngồi nhìn họ cũng đâm ra sốt ruột. Hoặc là đôi lúc cái vạt áo choàng da quấn lấy chân người đàn ông lại phanh ra rơi xuống sàn tầu, và người con gái lại lanh lẹ kéo nó lên. Tất cả những cử chỉ ấy thật tự nhiên, như thể hai người muốn bất chấp cả thời gian và không gian để tiếp tục mãi mãi cuộc hành trình đi về nơi xa xôi vô tận. Về phần Shimamura, chàng không cảm thấy một nỗi đau đớn hay phiền muộn nào như khi đứng trước một cảnh tượng thật là não lòng. Chàng chỉ thấy dửng dưng như thể đang ngắm một hoạt cảnh trong một giấc mơ – và có lẽ tác dụng lạ lùng của tấm gương đã cho chàng cái cảm giác ấy.

Trong chiều sâu của tấm gương, phong cảnh buổi tối ở đàng xa lần lượt kéo qua như một đáy gương di động: nhưng hình người phản chiếu rõ ràng hoa trên mặt gương nổi bật trên đây như những hình ảnh chồng lên nhau của một khúc phim. Dĩ nhiên, giữa những hình ảnh di động của bối cảnh và những hình người rõ rệt hơn chẳng có một chút liên hệ nào. Vậy mà những hình người trong suốt và bất biến kia lại dường như hòa lẫn vào bối cảnh mờ ảo và ảm đạm của phong cảnh buổi tối, tạo nên một vũ trụ kỳ ảo và duy nhất, một thứ thế giới tượng trưng siêu nhiên không phải ở thế giới này. Một thế giới đẹp vô ngần đã đi sâu vào tâm hồn Shimamura và làm chàng xúc động, đặc biệt khi ngẫu nhiên một ánh lửa trên núi xa xa bỗng lấp lánh chiếu ngay giữa khuôn mặt người con gái, tạo thành một vẻ đẹp không lời diễn đạt.

Khoảng trời tối xẩm phía trên những dặng núi hãy còn day dứt một vài vệt đỏ tía. Xa xa phía chân trời, những đỉnh núi còn in lên những hình dáng rõ rệt nhưng phong cảnh rừng núi gần hơn loang loáng trải ra đều đều và buồn hiu qua những dặm đường không nhìn thấy gì rõ, không còn lấy một mầu sắc. Tuyệt không còn chút gì để mắt đưa nhìn. Phong cảnh bềnh bồng trôi qua trong một cảm xúc mơ hồ và quạnh hiu mênh mông, chìm ẩn dưới khuôn mặt đẹp gợi cảm và dạt ra chung quanh. Hình ảnh hư ảo ấy khiến cho khuôn mặt trông như trong suốt, nhưng có thật nó trong suốt không? Shimamura cố gắng tìm hiểu, có lúc chàng tưởng chừng phong cảnh như hiện ra trên gương mặt, nhưng những hình ảnh trôi qua quá mau lẹ khiến chàng không biết chắc ảo giác ấy có thật không.

Ánh sáng trong toa tầu chỉ mờ mờ nên hình ảnh phản chiếu không được rõ rệt và sáng sủa như trong tấm gương thật. Bởi thế Shimamura quên bẵng đi mất hình ảnh của mình đang ngắm chỉ là một hình ảnh phản chiếu trong gương, và chàng cảm thấy như thể khuôn mặt ấy đang trôi nổi theo với phong cảnh rừng núi ngoài kia.

Đó là lúc một ánh lửa xa xôi bỗng ngời sang ngay giữa khuôn mặt. Trong sự phản chiếu chập chùng, hình ảnh khuôn mặt không đủ sáng để làm át ánh lửa đi nhưng ánh lửa cũng không sáng đến độ làm cho khuôn mặt chìm xuống dưới. Ánh lửa di động lần lần ngang qua khuôn mặt. Đó là một ánh lửa lạnh lẽo lấp lánh ở xa xôi. Và khi những tia sáng yếu ớt của nó rơi ngay chính giữa tròng mắt người con gái, ánh nhìn lẫn với ánh lửa xa, con mắt ấy tưởng chừng như một đốm lân tinh đẹp huyền ảo đang vật vờ trên trùng dương núi rừng buổi tối.

Yoko đâu biết được có người đang nhìn nàng. Tất cả sự chú ý của nàng đều tập trung vào người bạn đồng hành đang đau yếu. Mà dù cho nàng có nhìn về phía Shimamura đi nữa, nàng cũng không thể thấy bóng mình trong gương được mà để ý canh chừng người du khách đang nhìn ra ngoài cửa sổ.

Về phần Shimamura, chàng không lúc nào nghĩ rằng ngắm trộm một người con gái lâu như vậy là vô lễ, là bất tiện. Chàng như người mải mê với cái cảnh tượng siêu nhiên và không tưởng, huyền dịu bởi vẻ đẹp lạ lùng của khuôn mặt trôi cuốn theo phong cảnh buổi tối. Chàng đã quên hẳn mình, không biết mình sống trong thực hay mộng nữa.

Bởi vậy nên lúc thấy nàng đến bên cửa sổ gọi người xếp ca khi tầu đỗ, với vẻ nghiêm trang, nồng nhiệt, cảm tưởng đầu tiên của Shimamura về người con gái là nàng như một nhân vật lý tưởng trong một truyện truyền kỳ lãng mạn cổ xưa nào đó.

Khung cửa sổ đã tối xẩm lúc tầu đỗ. Sự huyền ảo của tấm gương đã phai nhạt với phong cảnh ban đêm. Gương mặt Yoko vẫn còn đó nhưng cái vẻ lạnh lùng của nàng, mặc dầu sự nồng nhiệt khi ân cần chăm sóc người bạn đường đau yếu, như thấm thía đến Shimamura khiến chàng nản chí. Và khi tầu chuyển bánh, chàng không buồn xóa đi những hơi nước đặc vừa đông lại trên cửa kính.

Vì thế nửa giờ sau đó, chàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy người con gái và bạn cùng đồng hành của nàng sửa soạn xuống cùng một ga với chàng. Chàng xoay lưng lại phía họ, như thể muốn thầm nhủ rằng, sự trùng hợp kỳ lạ ấy không có gì làm chàng phải bận tâm. Nhưng khi bước xuống sân ga, sự lạnh giá làm chàng bừng tỉnh và chàng cảm thấy ngượng ngập vì cái cử chỉ thô lỗ của mình trên xe lửa. Chàng bước mau qua đường rầy phía trước đầu máy không nhìn lại phía sau nữa.

Người đàn ông tật bệnh bám vào vai Yoko từ phía hè bên kia định bước xuống đường rầy nhưng một nhân viên hỏa xa đứng bên này giơ tay lên ra hiệu cho họ ngừng lại.

Một chuyến tầu dài chở hàng hóa trong bóng tối từ từ chạy qua che khuất hẳn hai người.

Người bồi xách hành lý của lữ quán 1 nơi chàng trú ngụ bận đồ ngự hàn kỹ lưỡng trông như một người lính cứu hỏa, đủ cả mũ có hai mang lớn che tai và ủng cao bằng cao-su. Đứng trong phòng đợi, một người đàn bà mặc áo choàng mầu xanh lơ, mũ chụp kín đầu có ý ngóng về phía đường tầu.

Không biết có thật lạnh như vậy không? Vừa ở trên toa tầu ấm áp bước xuống, Shimamura cũng không biết trời lạnh như thế nào. Đây là lần đầu chàng nếm mùi mùa đông ở xứ tuyết nên chàng hơi bỡ ngỡ với y phục của dân bản xứ. Chàng hỏi người xách hành lý:

“Đã lạnh đến thế rồi sao?”

“Đó là mới bắt đầu mùa đông. Trời mà quang đãng sau khi tuyết rơi là thế nào đêm đến cũng rét cật lực. Đêm nay chắc chắn sẽ lạnh đông nước.”

“Thế này là lạnh đông nước sao?”

Vừa bước lên xe taxi, Shimamura vừa ngước nhìn lên những mảnh nước đá mỏng manh đọng dài theo bờ mái hiên. Mầu tuyết trắng xóa làm cho bờ mái đã sâu lại càng sâu thêm, tựa hồ như mọi vật đều âm thầm lắng xuống lòng đất.

“Nghĩ ra thì rét đây thiệt cũng có khác mọi nơi. Ngay đến sờ vật gì cũng thấy khác.”

“Năm ngoái rét ở dưới hơn hai mươi độ.”

“Tuyết có nhiều không?”

“Hai đến ba thước là thường, có thể nói đôi khi lên tới trên bốn thước.”

“Thế bây giờ là bắt đầu có nhiều tuyết sao?”

“Mới chỉ sơ sơ thôi. Đã rơi độ ba mươi phân, nhưng cũng tan nhiều rồi.”

‘”Tan được sao?”

“Thì cũng có thể có tuyết lớn bất thần lúc nào, dám lắm.” Đó là những ngày đầu tháng Chạp. Shimamra vẫn bị cảm lay lứt làm nghẹt mũi, nhưng khí lạnh bỗng làm cho mũi chàng hết nghẹt và thông lên tới nửa đầu; chàng hỉ mũi một cái sạch hết, như thể trút bỏ được tất cả những gì đã làm cho chàng bứt rứt bấy lâu nay.

“Cái cô ở nhà bà thầy dậy đờn vẫn còn đây chứ?

“Còn chứ. Ông không thấy cô đứng đợi ngoài ga sao? Cái cô mặc áo choàng xanh lơ”

“A, hóa ra là cô ấy. Thế mà tôi không để ý, Lát nữa gọi cô ấy đến được không?”

“Ngay tối nay?” “Phải, tối nay.”

“Tại tôi nghe nói người con trai bà thầy đờn cũng về cùng chuyến tàu với ông. Cô ấy ra ga cốt để đón anh ta.”

Người con trai bà thầy đờn! Thế ra người đàn ông bệnh hoạn mà chàng đã thấy trong gương chập tối, người bạn đồng hành của Yoko, lại là con trai của bà thầy dậy đờn, chủ nhà của chính người đàn bà mà chàng đã đến đây để gặp lại! Shimamura cảm thấy như người bị điện giật, vậy mà chàng lại thấy sự trùng hợp ngẫu nhiên ấy không có gì đặc biệt đáng kể. Chàng ngạc nhiên thấy mình lại ít ngạc nhiên đến thế.

Đâu đây trong lòng chàng, Shimamura nhìn thấy một câu hỏi rõ rệt như đọc một hàng chữ viết trước mắt: có chuyện chi, hay sẽ xẩy ra chuyện chi giữa người đàn bà mà bàn tay chàng tôn giữ được kỷ niệm nóng hổi và người con gái có con mắt sáng rực vì ánh lửa rừng núi? Hay có lẽ chàng vẫn chưa dứt bỏ được sự ám ảnh của một tấm gương phản chiếu phong cảnh huyền ảo buổi tối?

Hay đó chỉ là một biểu tượng sống động của dòng thời gian?

Lữ quán suối nước nóng vắng khách nhất là vào khoảng mấy tuần lễ trước khi mở mùa trượt tuyết. Lúc Shimamura đi tắm trở về, chàng thấy tất cả đều vắng lặng như trong giấc ngủ. Chàng đi theo dẫy hành lang chạy dài, mỗi bước cất lên trên sàn nhà cũ kỹ lại làm những khuôn cửa kính rung lên lách cách. Chẳng thấy một bóng người nào hết. Nhưng cuối hành lang rẽ qua văn phòng lữ quán, chàng chợt thấy dáng mảnh mai của người đàn bà đứng đó trong bộ kimono dài, nếp áo lạnh lùng trải trên sàn si xẫm mầu bóng loáng.

Shimamura hơi khựng lại khi thấy nàng mặc bộ kimono dài – nàng đã trở thành một geisha rồi sao? Người thiếu phụ không tiến lại phía chàng, cũng không có một cử chỉ nào tỏ vẻ đã nhận ra chàng. Hình dáng nàng bất động trong một vẻ trang nghiêm chăm chú. Chàng tiến lại gần bên nàng, không trao đổi một lời với nhau. Nàng quay lại phía chàng phác một nụ cười trên gương mặt đầy phấn kiểu geisha ướt đẫm nước mắt. Không một lời, hai người lặng lẽ bước về phòng Shimamura.

Mặc dầu những gì đã xẩy ra giữa hai người, chàng đã không hề viết thư cho nàng, cũng không đến thăm nàng và gửi cho nàng những bài khảo luận về môn vũ như chàng đã hứa. Trách sao nàng chẳng nghĩ rằng mình bị riễu cợt và bỏ rơi. Như vậy chính là Shimamura cần phải xin lỗi nàng và ngỏ lời trước tiên. Nhưng trong lúc cùng nhau sánh bước không một lời nói, không một ánh nhìn trao đổi, chàng đã hiểu rằng, thay vì hờn giận, nàng đã sung sướng được gặp lại chàng. Chàng biết rằng có nói lên thì cũng chỉ làm cho sự lỗi đạo của mình thêm lộ liễu. Trong niềm say sưa, chàng bước vào một thế giới đầy hạnh phúc êm dịu. Tới chân cầu thang, đột nhiên chàng chìa bàn tay trái mở rộng ra trước mắt nàng.

“Nó vẫn giữ được một kỷ niệm đẹp nhất về em.”

“Thật sao?” Vừa nói, nàng vừa nắm chặt lấy bàn tay ấy như thể muốn lôi kéo chàng đi lên.

Bàn tay người đàn bà khép chặt lấy bàn tay Shimamura và chỉ rời ra khi hai người vào đến phòng trước lò sưởi 2 than hồng. Rồi bỗng nhiên gương mặt nàng ửng đỏ dưới làn phấn. Như để che dấu sự ngượng ngập, nàng nắm chặt lấy bàn tay của chàng.

“Nó còn nhớ đến em hả?”

“Không phải bàn tay kia, bàn tay này cơ.” Chàng chìa ra bàn tay trái cho nàng xem và đưa bàn tay phải vào lò để sưởi ấm.

“Em biết”. Nàng nở một nụ cười e ấp rồi với hai bàn tay dịu dàng, nàng đưa bàn tay Shimamura lên áp nhẹ vào má mình.

“Còn nhớ em hả?” Nàng thì thầm như nói với bàn tay một cách mơ màng.” “Chà, lạnh quá!”Shimamura kêu lên khi ngón tay chàng chạm phải mớ tóc vấn ngược của nàng. “Chưa bao giờ anh thấy một bộ tóc lạnh đến thế”.

“Ở Tokyo chưa có tuyết sao anh?”

“Lần trước em có nhớ em nói gì không? Sai rồi nhé. Nếu không ai lại đến đây vào tháng chạp để chết cóng làm chi?”

LẦN TRƯỚC ĐÓ LÀ VÀO LÚC MỞ MÙA leo núi. Nạn tuyết lở không còn đe dọa nữa và mùa xuân trên núi đã trở về xanh tươi thơm ngát. Trên những bàn ăn, món mầm akebi non đã thấy thiếu hẳn.

Vốn sống một cuộc đời tài tử nhàn rỗi, thiếu thành khẩn với chính bản thân, có đôi lúc Shimamura muốn tự tìm hiểu lấy mình. Đó là lúc mà chàng thích đi lên miền núi một mình. Thế là có một buổi tối, chàng đã đến thôn suối nước nóng sau một tuần ngao du khắp vùng Tam Trấn Sơn. Chàng cho gọi một cô geisha tới, nhưng theo lời người hầu gái, hôm đó chẳng may lại là ngày khánh thành một con đường mới, dân làng mở hội ăn mừng to lắm, đến nỗi phải chiếm cả nhà kho chứa tơ kén có đôi khi dùng làm rạp hát; và như vậy là tất cả mười hai, mười ba cô geisha ở đây đâu có rảnh rỗi được. Nhưng có cái cô ở đằng nhà bà thầy dậy nhạc có lẽ có thể đến được. Cô ấy đôi khi cũng có đến giúp vui tại các buổi tiệc; có điều là cô ấy không bao giờ ở lại mãn tiệc, chỉ độ vài ba điệu vũ là cô ấy đi về rồi.

Shimamura gặng hỏi thì người hầu gái cho chàng biết thêm vài điều về cô gái ấy. Không, cô ta không phải là geisha thực thụ. Cô ta chỉ là người ở trọ đằng nhà bà thầy dậy nhạc, dậy về khiêu vũ và đờn sa-mi-sen 3. Nhưng đôi khi có người mời cô đến giúp vui tiệc tùng, cô cũng nhận lời. Bởi vì các cô geisha ở đây không có dậy ai học nghề, vả lại hầu hết đều không thích khiêu vũ vì sợ mình đã hết độ thanh xuân cho nên ai cũng thích cô ấy lắm. Gần như không bao giờ cô ấy chịu đến lữ quán một mình để tiêu khiển cho khách cả. Tuy cô không phải là chuyên nghiệp, nhưng cũng không thể bảo là cô ấy làm ăn tài tử hay coi cô là tài tử được.

Chuyện lạ! Shimamura nghĩ thầm trước khi quên hẳn câu chuyện người hầu gái kể. Nhưng chỉ độ một tiếng đồng hồ sau, người hầu gái đã quay trở lại và đem giới thiệu với chàng cô-gái-ở-nhà-bà-thầy-dậy-nhạc. Shimamura ngạc nhiên đứng dậy.

Người hầu gái sắp sửa rời khỏi phòng thì cô gái gọi giật lại, bảo cứ ở đó.

Cái cảm giác nàng đem lại cho Shimamura là một cảm giác trong sạch và tươi mát tuyệt vời. Chàng nghĩ có lẽ tất cả thân thể người con gái phải là sẽ hết chỗ nói, sạch cho đến cả kẽ chân, sạch sẽ đến độ chàng phải tự hỏi không biết sự trong trắng đến ngần ấy có phải chỉ là một ảo giác của mắt nhìn hãy còn bị chói lòa bởi cảnh huy hoàng rực rỡ của núi rừng vừa sang đầu hạ?

Nàng không mặc kimono dài, nhưng trong cách ăn mặc vẫn có một vẻ geisha. Nàng phục sức đàng hoàng, một bộ kimono nhẹ, không lót, kiểu mùa hè; nhưng cái đai bụng lại có vẻ quá diêm dúa không hợp với áo, gợi cho chàng một thoáng buồn.

Người hầu gái thừa cơ hai người mải nói về chuyện núi non nên đã lẻn ra ngoài. Như vậy chỉ còn lại hai người với nhau, nhưng vì nàng cũng không biết rõ tên các ngọn núi có thể nhìn thấy qua cửa sổ cho nên câu chuyện cũng ngưng luôn. Shimamura thì không cảm thấy có hứng uống rượu như khi thường ngồi với các cô geisha, thành thử rốt cuộc nàng đem cuộc đời quá khứ của mình ra kể cho chàng nghe. Nàng kể chuyện một cách hồn nhiên, trôi chẩy lạ lùng.

Nàng sinh trưởng ở xứ tuyết này nhưng lại lên Tokyo sinh sống bằng nghề geisha. Được ít lâu có một người khách đến chuộc nàng ra, trả hết tiền nợ cho nàng và sửa soạn cho nàng làm nghề dậy khiêu vũ, nhưng một năm rưỡi sau thì chẳng may người ấy chết. Về câu chuyện đời nàng từ lúc đó trở đi và cuộc sống hiện tại, nàng tỏ vẻ kín đáo hơn. Nàng tự cảm thấy không tiện tâm sự về quãng đời ấy, có lẽ là quãng đời thăng trầm nhất. Nàng nói nàng mới mười chín tuổi trong khi Shimamura lại đoán nàng vào khoảng hăm mốt, hăm hai.

Nhưng Shimamura tin rằng nàng thành thật, cho nên khi biết được tuổi nàng và thấy nàng già trước tuổi, chàng cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được sự thoải mái mong đợi như khi đối diện với một geisha thực thụ. Khi câu chuyện xoay về kịch nghệ Kabuki, chàng ngạc nhiên nhận thấy nàng biết nhiều hơn mình về các kịch sĩ và những thể kịch khác nhau. Nàng nói thao thao với vẻ vội vã nồng nhiệt như một người đã lâu ngày khao khát một kẻ tri âm. Sự e dè ngượng ngập ban đầu đã tan biết hẳn để lộ ra người đàn bà có một niềm tự tin, một sự dễ dãi phóng khoáng, như đã được dậy bảo chu đáo và có lẽ khá có kinh nghiệm đạo đức về đàn ông. Tuy nhiên Shimamura vẫn không thể nào liệt nàng vào hạng gái chuyên nghiệp được. Chàng chỉ còn thấy ở nàng một người đàn bà mà bẩy ngày sống đơn độc vừa qua nơi rừng núi đã khiến chàng mong ước được làm bạn. Người con gái đối diện chỉ gợi ra nơi chàng những tình cảm thuần túy bạn bè và chàng sung sướng thấy nàng xứng đáng cùng chàng chia xẻ nỗi vui mừng tột độ, sự sảng khoái mà chàng đã cảm thấy đối với rừng núi.

Buổi chiều hôm sau, khi đến tắm suối nước nóng tại lữ quán, nàng đã để đồ tắm ngoài hành lang và bước vào phòng nói chuyện với Shimamura.

Nàng chưa kịp ngồi xuống thì chàng đã bảo nàng kêu hộ một cô geisha đến.

“Gọi geisha cho ông?”

“Chứ sao Cô thừa hiểu tôi muốn nói gì”

“Tôi đâu có đến đây để nghe ông hỏi như vậy!” Nói xong, nàng đỏ ứng mặt, và vụt đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài phía núi. “Ở đây làm gì có những người đàn bà như vậy.”

“Đừng có ngớ ngẩn.”

“Thật mà.”

Nàng bỗng quay lại đối diện với chàng và nửa ngồi trên thành cửa sổ.

“Ở đây các cô geisha tự do lắm. Chẳng ai bắt được một cô geisha làm điều gì nếu cô ta không muốn. Lữ quán cũng không phụ trách việc ấy đâu. Nếu ông muốn, ông cứ việc cho gọi một cô đến và tự dàn xếp lấy với cô ta.”

“Không, cô đi gọi hộ tôi.”

“Tại sao ông chắc là tôi sẽ làm việc ấy cho ông?”

“Tại vì tôi xem cô như một người bạn, và tôi cũng chỉ muốn có thế. Nếu không, tôi đã chẳng ngoan ngoãn như thế này.”

“Xử sự như vậy mà ông cho là bạn bè sao?” Nàng đáp với sự liếng thoắng hồn nhiên và đáng yêu của một đứa trẻ.

Nhưng chỉ một lát sau, nàng lại giận dữ ấm ức nói:

“Thế mà ông dám nghĩ đến nhờ tôi làm một việc như vậy được, kể cũng tệ thật!”

“Có gì đâu mà cô phải giận. Chỉ tại tối qua sung sức sau một tuần lễ ở trên núi. Tôi cứ có những ý tưởng ấy trong đầu óc, thì làm sao ngồi yên trong phòng này mà nói chuyện tử tế với cô như ý muốn được?”

Người con gái im lặng, mắt nhìn xuống sàn nhà. Đã đến nước này, Shimamura biết rằng mình đã tỏ ra sống sượng khi nói trắng ra những đòi hỏi của người đàn ông. Nhưng mặt khác, chàng lại nghĩ rằng một người như nàng chắc phải rõ những chuyện ấy thì mới thản nhiên được như vậy.

Chàng ngắm kỹ khuôn mặt nàng và thấy khuôn mặt ấy có một vẻ nồng nàn đa tình, có lẽ là tại những hàng mi dài và dầy rậm mà đôi mặt nhìn xuống lại càng thêm làm nổi bật.

Nàng lắc đầu rất nhẹ nhàng rồi với gương mặt ửng hồng, nàng nói:

“Ông cứ việc cho gọi cô geisha nào mà ông muốn.”

“Đó chẳng phải là điều tôi nhờ cô làm sao? Tôi chưa đến đây bao giờ, làm sao tôi biết cô nào dễ thương nhất được?”

“Dễ thương? Như thế nào là dễ thương?”

“Trẻ tuổi, chẳng hạn. Còn trẻ thì mình ít bị nhầm lẫn vì bề ngoài hơn. Và phải ít lời, sạch sẽ và đừng quá tinh khôn. Nếu tôi thích cô nào để nói chuyện, tôi sẽ gọi cô.”

“Sẽ không bao giờ tôi trở lại nữa.”

“Thôi đừng có vớ vẩn.”

“Tôi đã bảo là tôi không đến mà. Tại sao tôi lại phải đến nhỉ?”

“Tại vì tôi muốn chúng mình là bạn, chỉ có thế thôi. Tôi cũng đã nói đó là lý do tôi xử sự như vậy rồi.”

“Thôi đừng nói nữa!”

“Giả sử là tôi chịu ưng với cô đi. Rồi làm sao? Có lẽ chỉ ngày mai là tôi hết hứng nói chuyện với cô rồi; chỉ gặp mặt cô lại cũng đủ khó chịu. Cô có hiểu rằng tôi đã phải đến miền núi này để tìm lại nhu cầu nói chuyện với mọi người không? Và cũng chỉ để cùng nhau trò chuyện, trao đổi tâm tình với cô nên tôi mới không đụng tới cô. Rồi cô cũng phải nghĩ đến bản thân mình nữa chứ? Hình như cô cũng không biết là mình phải nên thận trọng đối với du khách. Họ chỉ là những người qua đường.”

“Đúng như vậy.”

“Lẽ dĩ nhiên. Cô thử nghĩ đến cô mà xem. Nếu cô thấy con người đó là đáng trách thì chính cô sẽ không muốn gặp tôi nữa. Không, tốt hơn là cô nên chọn cho tôi người ấy.”

“Thôi đi, tôi không nghe ông nói nữa đâu.” Rồi nàng quay mặt đi một cách đột ngột. Một giây lát nghĩ ngợi sau, nàng tiếp:

“Có lẽ ông nói hơi có lý.”

“Chỉ là chuyện chốc lát rồi thôi, mong cô hiểu. Chẳng có gì là đẹp đẽ. Một chuyện không quan trọng mà cũng không có ngày mai.”

“Có lẽ vậy. Ai đến đây cũng nghĩ như thế cả. Dẫu sao, đây cũng chỉ là một trạm suối nước nóng: du khách đến ở một vài ngày rồi lại đi.”

Bỗng nhiên nàng trở nên hòa dịu một cách bất chợt và lại tìm thấy sự thoải mái trong giọng nói, trong dáng điệu:

“Khách trọ ở đây phần lớn chỉ là du khách. Tôi cũng chỉ là đứa con nít nhưng nghe thiên hạ nói nhiều, tôi cũng biết hết. Người khách nào mà không nói gì, mà mình thấy có cảm tình vô duyên cớ, người đàn ông nào không thổ lộ ra mà mình cũng cảm thấy được yêu thương, thì chính đó là người mình giữ được kỷ niệm đẹp nhất. Người ta rời mình đi đã lâu rồi mà mình vẫn thấy nhớ, nghe nói như vậy. Và là người năng viết thư cho mình luôn.”

Từ trên thành cửa sổ nàng nhẩy nhẹ xuống ngồi trên chiếu dưới chân Shimamura. Người con gái dường như đang chìm đắm trong quá khứ của mình; vậy mà Shimamura lại cảm thấy nàng gần gũi mình hơn bao giờ hết. Giọng nàng nói có một vẻ thơ ngây trong trắng, một sự biểu lộ tự nhiên trực tiếp đến độ làm cho chàng xao động; chàng cảm thấy mình hơi có tội vì đã chinh phục được nàng một cách quá dễ dàng, gần như bất đắc dĩ.

Tuy vậy, chàng đã không nói dối. Đối với chàng, người con gái này không thể là một cô gái chuyện nghiệp. Nếu có sự ham muốn đàn bà thì sự ham muốn ấy chỉ là một nhu cầu cần thỏa mãn, có thế thôi. Chàng không muốn lợi dụng nàng trong mục đích ấy. Chàng muốn nó chỉ thoảng qua, xong rồi phủi tay vô trách nhiệm. Đối với chàng, người con gái này có một cái gì quá trong sạch; ngay từ lúc mới nhìn chàng đã tự cảm thấy không thể lẫn lộn nàng với các cô khác được.

Mặt khác, chàng cũng đang bận tâm vì vấn đề nghỉ hè và còn phân vân chưa biết đem gia đình đi đâu để thoát khỏi cảnh nóng bức thì chợt nẩy ra ý kiến có thể đem gia đình đến đây để nghỉ mát. Chàng nghĩ rằng, cũng may nàng không phải là gái chuyên nghiệp nên có thể bầu bạn với vợ chàng được rất tốt. Vả lại có thể nhờ nàng dậy vợ chàng học nhẩy cho đỡ buồn cũng được chứ sao? Chàng thật lòng dự tính như vậy. Nếu chàng nói chỉ muốn có một tình bạn với nàng là chính bởi vì chàng có những lý do để lội trong vũng nước cạn hơn là lao mình nhẩy xuống.

Nhưng mặc dầu thế nào, chắc chắn là chàng đã bị ám ảnh bởi một huyễn lực, một huyễn lực cũng gần giống như cái ảo ảnh trong tấm gương lúc buổi tối đã làm chàng say mê. Cả thể là chàng sợ mối liên hệ với một cô gái nửa nhà lành nửa chuyên nghiệp sẽ mang lại những rắc rối; nhưng chính ra là tại cái cảm giác mong manh trong suốt kỳ lạ, một thứ hư ảo mà nàng đã gợi ra nơi chàng, cũng gần như cái ánh phản chiếu kỳ ảo nên thơ mà chàng đã thấy trong tấm gương; cái khuôn mặt gợi cảm đầy nữ tính và tươi trẻ bồng bềnh trước cảnh sắc lướt qua của hoàng hôn và đêm tối.

Cũng chính với vẻ hư ảo ấy mà Shimamura đã say mê nghệ thuật vũ Tây- phương. Chàng sinh trưởng ở khu thương mại Tokyo nên từ thuở bé chàng đã quen thuộc với kịch nghệ Kabaki. Khi lớn lên đi học thì sở thích của chàng quay lại với môn vũ Nhật-bản và môn hoạt kịch. Vốn chỉ thỏa mãn khi biết được ngọn ngành về môn mình thích nên chàng đã ra công nghiên cứu, sưu tầm cả đến những tài liệu cổ xưa nhất và giao du với những bậc thầy danh tiếng của các trường phái cổ truyền cũng như với những nghệ sĩ tiêu biểu cho các khuynh hướng mới. Chàng viết những bài biên khảo và phê bình. Nhưng chẳng bao lâu, với sự uyên bác phong phú đã đạt được, tự nhiên chàng cảm thấy bất mãn một cách chua chát với sự thoái hóa của một truyền thống đã trở nên nhàm vì quá lâu đời, cũng như không thể chấp nhận được những sáng kiến gọi là canh tân nhưng thật ra chỉ là chạy theo thị hiếu. Chàng đã đến độ cho rằng chỉ có cách là phải tự mình trực tiếp dấn thân vào như lời khẩn khoản của mấy nhân vật trẻ tuổi nổi danh nhất của giới vũ thì đột nhiên chàng từ bỏ hết để quay sáng môn vũ Tây-phương. Chàng nhất quyết không đi xem những vũ điệu Nhật-bản nữa và bắt đầu để ý sưu tập những sách biên khảo, tài liệu, tranh ảnh và bài báo, tóm lại tất cả những gì nói về nghệ thuật vũ của Tây-phương và những biểu hiện khác nhau về vũ điệu. Chàng cất giữ nâng niu những tập chương trình, những tấm bích chương mà chàng đã gửi mua ở ngoại quốc về với biết bao khó khăn rắc rối. Thật ra, đối với Shimamura, sự say mê cái xa lạ mới mẻ này không hẳn là chỉ do tính hiếu kỳ. Có điều là sự kiện chàng không thể đích thân tham dự những công trình thực hiện hay tận mắt nhìn thấy những vũ khúc Tây- phương được trình diễn đã cho chàng được hưởng một khoái cảm thuần túy hơn và khiến chàng vô cùng thích thú. Chứng cớ là không bao giờ chàng chịu tìm hiểu về những vũ khúc Tây-phương do người Nhật thực hiện và trình diễn. Chàng cho rằng không gì thích thú bằng viết về môn vũ, khảo luận về nghệ thuật vũ mà chỉ dựa trên một kiến thức thuần túy sách vở. Cái vũ điệu mà chàng chưa hề bao giờ nhìn thấy, đối với chàng đã trở thành như một nghệ thuật lý tưởng, một giấc mơ về một thế giới khác, như thiên đàng của sự hòa điệu và toàn bích tuyệt vời, như sự đắc thắng của thẩm mỹ học thuần túy. Gọi là nghiên cứu và sưu tầm, nhưng thật ra chính là giấc mộng của mình mà Shimamura đã theo đuổi qua những hình ảnh và sách vở Tây phương. Một ảo cảnh vô cùng tận và không gì sánh kịp của trí tưởng tượng về vũ điệu hằng mơ ước chẳng hơn là cảnh tượng của vũ điệu cụ thể hóa trước mắt sao? Cũng như thể sự thích thú tuyệt vời kiểu một người yêu lý tưởng, một tình nhân cao thượng, thuần khiết, chưa bao giờ được gặp mặt người mình yêu vậy. Nhưng đó cũng chẳng phải là tất cả lý do đã làm Shimamura thỏa mãn. Vốn là kẻ nhàn cư, chàng cũng được toại nguyện thấy mình bước vào được giới văn nghệ, mặc dầu chàng vẫn coi rẻ cả chính mình lẫn những công trình của mình đã xuất bản.

Đã từ lâu lắm, có lẽ đây là lần đầu chàng thấy những kiến thức của mình có ích dụng, bởi vì nhờ nói chuyện về vũ mà chàng đã chiếm được tình cảm thân mật của người con gái mới quen biết. Nhưng biết đâu chẳng vì vô tình, chàng đã coi người con gái cũng như môn vũ Tây-phương dưới cùng một góc cạnh vậy.

Thấy nàng xúc động vì những lời nói thiếu chín chắn của một người du khách chỉ ngày mai lại lên đường, Shimamura cảm thấy hơi hổ thẹn như thể chàng đã lừa dối nàng hoặc hời hợt đùa bỡn một tâm hồn sâu sắc và thành thật. Nhưng chàng thản nhiên tiếp:

“Có thể tôi sẽ đem gia đình đến đây, chúng mình có thể chơi với nhau như bạn bè.”

“Vâng, tôi biết lắm.” nàng thấp giọng nói và phác một nụ cười phảng phất vẻ bỡn cợt của một cô geisha. “Dù sao tôi cũng thích như vậy hơn. Nếu chỉ là bạn bè thì nó bền vững hơn.”

“Vậy là cô sẽ đi kêu cho tôi một người?”

“Ngay bây giờ sao?”

“Ngay bây giờ.”

“Nhưng ban ngày ban mặt thì ông ăn nói gì được với cô ấy?”

“Đợi đến tối sợ vớ phải thứ cặn bã mà ai cũng chê.”

“Vậy ông nhầm xa. Thôn suối nước nóng này đâu phải là nơi tầm thường như vậy! Tôi tưởng chỉ cần nhìn qua ông cũng đủ thấy có sự khác biệt.” Nàng chua chát đáp với giọng trang nghiêm như một người danh dự bị thương tổn.

Nàng vẫn cả quyết như khi nãy là các cô geisha ở đây không phải là hạng đàn bà như chàng tưởng. Khi Shimamura tỏ ý nghi ngờ thì nàng lại giận dữ xong lại đấu dịu ngay. Nàng nói dẫu sao thì cũng tùy ở cô geisha có muốn ở lại đêm hay không. Nếu cô tự ý ở lại thì đó là trách nhiệm riêng của cô ấy; nhưng nếu được nhà chủ cho phép thì nhà chủ chịu hết trách nhiệm nếu có chuyện gì xẩy ra. Khác nhau là ở chỗ đó.

“Trách nhiệm gì?”

“Về hậu quả có thể xẩy ra, như có bầu hay rủi ro mang bệnh.”

Shimamura nhăn mặt mỉm cười vì câu hỏi ngớ ngẩn của mình. Thì ra ở xó rừng núi này, sự dàn xếp giữa cô geisha và chủ nhà của mình kể ra cũng có điều thuận tiện.

Có lẽ vì sự nhạy cảm vị kỷ của kẻ ăn không ngồi rồi mà Shimamura đã có một thứ bản năng giúp chàng hiểu thấu được bản chất đích thực của những nơi chàng thăm viếng. Chàng thường không mấy để ý đến bề ngoài mà chỉ tìm hiểu cái tính chất bên trong và đích thực không hẳn là bao giờ cũng lộ diện ra ngoài. Cũng vì vậy mà khi từ miền núi xuống đây, chàng đã cảm thấy rằng, mặc dầu có vẻ quê mùa mộc mạc, thôn suối nước nóng này chắc hẳn là đầy thú vị và ấm cúng. Chàng đã không lầm vì tại lữ quán chàng được biết đây là thôn trù phú nhất trong cái xứ tuyết thô kệch này. Trước khi đường xe lửa được thiết lập mới gần đây, chỉ có những nông dân trong vùng là thường đến đây để tắm suối chữa bệnh. Bởi vậy nên nhà chứa geisha thường là một trà-thất hoặc một quán ăn với tấm biển cũ rích treo bên ngoài mà cứ nhìn những khuôn cửa kéo theo lối xưa, những ô giấy mờ đục đen xạm với thời gian là đủ biết khách khứa cũng chẳng có là bao. Cái cửa tiệm thực phẩm tạp hóa và bán bánh kẹo kia có lẽ cũng chứa geisha, nhưng chủ nhân chắc là phải có một nông trại nhỏ trong vùng, ngoài cửa tiệm và cô geisha ra. Như vậy chắc cũng chẳng có cô geisha nào phiền lòng khi thấy một cô gái không phải là geisha thực thụ thỉnh thoảng đến giúp vui tại các buổi dạ tiệc, nhất là khi cô gái đó lại ở tại nhà bà thầy đã dậy họ nhạc.

“Cả thẩy có bao nhiêu cô?”

“Các cô geisha ấy à? Vào khoảng mười hai, mười ba cô gì đó.”

“Vậy cô khuyên tôi nên chọn cô nào?” Shimamura đứng dậy để bấm chuông gọi người hầu gái.

“Xin ông tha lỗi; tôi xin phép được cáo lui.”

“Đâu có được.”

“Tôi không thể ở lại được.” Nàng thở dài nói như thể cố nén sự nhục nhã.

“Tôi đi về đây. Nhưng không sao, tôi không giận đâu. Tôi sẽ trở lại.”

Tuy nhiên khi người hầu gái tới, nàng lại ngồi xuống chiếu làm như không có chuyện gì đã xảy ra. Vậy mà người hầu gái cứ hỏi đi hỏi lại hoài mà nàng vẫn không chịu nói ra tên một cô nào để cho đi gọi cả.

Cô geisha được dẫn đến khoảng mười bảy, mười tám tuổi. Mới thoạt nhìn, chàng đã thấy sự thèm muốn đàn bà nhạt nhẽo tan biến dần. Cô nàng có đôi cánh tay mảnh mai của đứa trẻ mới lớn, kẽ dưới nách sâu đậm lại càng làm tăng thêm vẻ mảnh mai, và nhìn toàn thể, cô nàng có vẻ một thiếu nữ khả ái còn ít tuổi, chưa nẩy nở hoàn toàn. Cố tìm mọi cách để che dấu sự bất ưng ý của mình, Shimamura tiếp đãi cô nàng một cách phải chăng, nhưng chàng vẫn không thể rời mắt nhìn cảnh sắc xanh tươi rực rỡ trên triền núi qua khung cửa sổ, sau lưng nàng. Làm sao mà nói chuyện được với cô gái này, một thứ geisha miền núi trăm phần trăm? Thật là khó nhọc và đòi hỏi quá mức Sự im lặng giữa hai người nặng nề, khó thở và buồn bã. Người bạn gái đầu tiên của chàng có lẽ muốn tỏ ra là mình tế nhị và có ý tứ nên đã cáo lui, lại càng khiến cho sự trò chuyện giữa cô gái geisha và chàng trở nên thêm nặng nề khó nhọc.

Mặc dầu như vậy, Shimamura cũng đã ngồi được với cô gái geisha đến một tiếng đồng hồ. Chàng đang kiếm cớ để đuổi cô gái đi thì chợt nhớ ra rằng có bưu phiếu điện tín gửi tiền từ Tokyo cho chàng. Chàng nói với cô gái chàng phải ra nhà bưu điện trước giờ đóng cửa và cả hai chỉ còn cách bước ra khỏi phòng.

Chưa ra khỏi ngưỡng cửa lữ quán thì Shimamura đã như người bị mê hoặc bởi rừng núi và không khí ngạt ngào mùi lá mới. Chàng leo miết lên sườn núi, và cười như điên mà chẳng hiểu tại sao.

Khi đã thấm mệt và cảm thấy tay chân rã rời một cách khoan khoái, chàng đột nhiên quay trở lại, nhét vạt áo kimono vào trong giải lưng và chạy thẳng trở xuống. Mắt chàng theo dõi đôi bướm vàng bay nhởn nhơ phía dưới chân và chẳng mấy lúc chúng đã trở nên trắng xóa, bay lượn rất xa trên nền trời cao, phía trên những đỉnh núi.

“Có chuyện gì thế? Nghe ông cười như vậy chắc phải là vui sướng lắm!”

Đó là giọng nói của người đàn bà đứng trong bóng những cây bá-hương cao lớn.

“Tôi bỏ cuộc rồi.” Shimamura lại cảm thấy muốn phá lên cười. “Tôi bỏ cuộc rồi.”

“Thế à?”

Người đàn bà quay mình lại và chậm rãi bước đi dưới rặng cây. Shimamura im lặng bước theo. Đó là khu rừng bá-hương của một ngôi đền nhỏ. Người đàn bà đặt mình ngồi xuống một phiến đá phẳng phiu, bên cạnh tượng phủ đầy rêu của những súc vật gác cổng đền.

“Ở đây lúc nào cũng mát mẻ. Ngay giữa mùa hạ cũng có gió mát”.

“Các cô geisha đều giống như vậy sao?”

“Cũng hơi giống như vậy. Trong số các cô già hơn, có thể có vài cô duyên dáng lắm. Nhưng ông đâu có thích như vậy”

Nàng nói một cách lạnh lùng, đầu cúi xuống nhìn dưới đất đăm đăm. Màu xanh đậm của những cây bá-dương dường như ánh lên từ gáy nàng.

Shimamura ngẩng lên nhìn những cành cây cao và tâm sự:

“Kể cũng lạ, tôi thật sự không còn thấy ham muốn nữa. Giống như người đã mất hết sinh lực vậy!”

Từ phía sau tảng đá nơi nàng ngồi, những thân cây bá-hương thẳng tắp, vươn cao vút đến độ chàng phải ngả người ra phía sau và dựa lưng vào đá để nhìn cho tới ngọn cây. Nền trời bị che khuất bởi những hàng cây bá-hương ngay ngắn mọc sát nhau, cành và lá xanh rậm rạp đan vào nhau. Im lặng và thanh bình dâng lên như một điệu thánh ca. Shimamura lấy làm lạ nhận thấy mình đã dựa lưng vào một góc cây già nhất, thân về hướng Bắc chẳng hiểu sao lại chỉ có những cành khô mục gẫy khiến cho suốt chiều cao của thân cây đều tua tủa những cành gẫy cụt gớm ghiếc và những ngọn đào nhọn chĩa ra, tạo thành một thứ vũ khí ghê gớm trong tay một thần nhân.

“Tôi đã lầm”. Chàng cười nhẹ thú nhận. “Khi tôi từ miền núi xuống đây được gặp cô, tôi cứ tưởng các cô geisha ai cũng như cô!”

Trong lúc nói, Shimamura tự hỏi, mình đột nhiên ham muốn trút bỏ mau lẹ sự thừa thãi sức lực đã chứa chất trong tám ngày dong chơi miền núi một mình, biết đâu lại chẳng do cái ấn tượng tươi mát kỳ lạ và trong sạch tuyệt vời mà nàng đã đem lại cho chàng?

Người con gái nhìn thác nước chảy phía xa dưới ánh nắng mặt trời đã bắt đầu ngả bóng. Shimamura không cảm thấy hãnh diện về mình chút nào.

“À quên”, nàng bỗng nhiên nói với một vẻ tự nhiên gượng gạo, “Tôi đã lấy thuốc lá cho ông. Lúc nãy trở vào phòng ông tôi thấy ông đã đi khỏi. Còn đang phân vân không biết ông đi đâu thì tôi nhìn qua cửa sổ thấy ông đang leo núi như điên. Trông ông khi ấy thật tức cười!… Thấy ông bỏ quên thuốc lá, tôi đã đem ra cho ông”.

Nàng rút bao thuốc từ ống tay áo kimono ra và châm lửa cho chàng hút. “Tôi đã không tỏ ra lịch sự đối với cô ấy, tội nghiệp”.

“Dầu sao thì đó cũng là quyền của khách, nếu khách muốn để cho cô geisha ra về”.

Trong sự yên lặng thanh tịnh, tiếng reo của thác nước chẩy trong lòng đá sỏi đàng kia vẳng đến như một nhạc điệu âm vang dìu dịu. Phía bên kia, trên sườn núi dốc ngược xuyên qua những cánh bá-hương nổi bật nét thanh lịch, bóng tối đã dần dà chen vào những khe đá.

“Trừ phi cô ta sánh được với cô, nếu không trong thâm tâm tôi sẽ thấy như bị lừa dối nếu lại gặp cô”

“Xin ông bỏ qua đừng nói đến chuyện ấy nữa.”

Nàng nói dứt khoát. “Tất cả chỉ tại vì ông không muốn thừa nhận là ông đã lầm.”

Giọng nói của nàng có vẻ hơi khinh thị, nhưng tuy vậy một niềm cảm mến êm dịu đã như ràng buộc lấy hai người.

Đối với Shimamura, thật không còn ngờ vực gì nữa; từ lúc gặp nhau ban đầu, thật ra chàng chỉ ham muốn có nàng, riêng mình nàng, nhưng tính vốn dĩ tự bao giờ, chàng đã tìm đường rắc rối, chạy quanh thay vì thú nhận thẳng thắn bằng lời nói. Và càng ghê tởm mình bao nhiêu, chàng lại càng thấy người con gái đẹp thêm bấy nhiêu. Ngay từ lúc nàng đứng đó, dưới bóng cây bá-hương, gợi chuyện với chàng, hình dáng nàng đã như một hơi thở mát rượi phả vào tận tâm hồn chàng.

Mũi nàng cao và thanh, gợi ra một nét buồn đơn độc thoảng qua trên gương mặt, nhưng đôi môi, như một nụ hoa nồng nàn khi nở khi chụm, lại đầy vẻ duyên dáng sống động và khao khát. Ngay cả khi im lặng, đôi môi nàng cũng dường như mấp máy, sống động. Nếu bị nứt nẻ, nhăn nheo hay kém tươi thắm hơn, có lẽ cặp môi đó sẽ có vẻ thiếu sinh khí; nhưng đàng này, mầu sắc đôi môi mịn mướt như nhung và căng bóng tràn đầy nhựa sống. Làn mi không cong, không xếch, vạch ngang mi mắt một đường thẳng đến độ có vẻ kỳ cục, khôi hài, nếu không có cặp lông mày ngắn, dầy rậm cong nhẹ xuống để nâng đỡ và, gần như bao bọc, một cách tế nhị. Gương mặt tròn trĩnh và hơi khoặm của nàng, tự nó, không có vẻ gì đặc biệt. Nhưng với làn da trắng như men sứ ánh lên hồng hào, với ngấn cổ trinh nữ và bờ vai mảnh mai, nàng đã đem lại một ấn tượng tươi mát, thuần khiết đến độ như thể nàng là hiện thân của cái đẹp duyên dáng, mặc dầu nàng không phải là đẹp một cách tuyệt đối. Bộ ngực nàng khá nở nang đối với một người đàn bà thường hay thắt đai bụng 4 chặt chẽ và cao, kiểu geisha.

“Muỗi đã ra rồi đấy.” Vừa nói, nàng vừa lấy tay xua nhẹ dưới vạt kimono.

Đơn độc trong sự vắng lặng sâu thẳm của rừng cây, hai người chẳng còn biết nói gì với nhau.

Tối hôm ấy, có lẽ nào khoảng lúc mười giờ, Shimamura nghe thấy tiếng người con gái lớn giọng gọi tên chàng từ ngoài dẫy hành lang. Một lát sau, nàng chuệnh choạng bước vào phòng và ngã gục xuống trước bàn như bị người xô đẩy. Bằng một cử chỉ mù quáng, nàng lấy tay gạt đổ hết tất cả những gì ở trên mặt bàn, tự rót lấy một ly nước lạnh uống ừng ực.

Nàng nói nàng đã đi chơi với mấy người du khách từ vùng núi xuống, những người quen biết từ mùa trượt tuyết năm ngoái. Họ đã mời nàng đến lữ quán dự một bữa tiệc náo động cùng với các cô geisha và đã đùa nghịch chuốc rượu cho nàng đến say sưa.

Đầu ngả nghiêng ngất ngư, nàng nói như thể không bao giờ muốn ngừng.

Rồi nàng chợt tỉnh lại và như nhớ ra điều gì:

“Tôi sẽ trở lại. Lẽ ra tôi không nên đến đây, họ sẽ đi tìm tôi. Lát nữa tôi sẽ trở lại.”

Nói xong, nàng ngất ngưởng bước ra khỏi phòng.

Chừng gần một giờ sau, Shimamura nghe thấy những tiếng bước chân bất định lần bước một cách khó nhọc theo hành lang, những tiếng chân siêu vẹo, loạng choạng từ vách này sang vách kia, trượt ngã rồi lại bước đi.

“Shimamura! Shimamura! Tối quá chẳng nhìn thấy gì cả,” nàng cao gọi lớn. “Shimamura!”

Đó là một tiếng kêu không chút giả tạo, một tiếng gọi đích thực của trái tim, tiếng kêu cứu của một người đàn bà gọi người mình yêu, nghe thật trơ trọi, thật đanh gọn, thật rõ ràng, khiến Shimamura phải xúc động. Chàng giật mình vội vã đứng dậy. Chắc chắn tiếng gọi phải vang dội trong suốt lữ quán.

Những ngón tay nàng luồn qua ô cửa giấy để vịn vào khuôn cửa trước khi nàng ngã vật vào người chàng.

“À, cô”

Nàng bám chặt lấy chàng và buông mình thõng xuống đất. Vừa nói, nàng vừa ép chặt mình vào người chàng:

“Tôi đâu có say. Không, tôi không say đâu. Nhưng mà nhức đầu quá! Nhức quá đi mất! Không sao đâu, tôi tỉnh lắm mà, chỉ phải cái nhức nhối quá Cho tôi uống nước đi, khát nước quá. Lỗi là tại tôi đã pha rượu, đáng lẽ tôi không nên pha. Uống nó bốc ngay lên đầu, đau quá. Trời ơi! Cái đầu tôi! Họ có một chai whisky rẻ tiền. Làm sao tôi biết được là thứ rẻ tiền.”

Nàng nắm chặt hai bàn tay, đưa lên dụi trán. Ngoài kia, mưa bỗng rào rào nặng hột hơn.

Để giữ cho nàng đứng vững. Shimamura đã phải vòng tay ôm chặt lấy nàng, khiến cho búi tóc cao của người con gái xiết vào má chàng. Chỉ hơi nới tay một chút, chàng đã cảm thấy nàng như sắp đổ ngã. Trong lúc ôm gọn nàng trong vòng tay mình, chàng dịu dàng lướt một bàn tay vào trong cổ áo kimono.

Nàng không nhúc nhích đáp ứng và khoanh tay lại để cản bàn tay của Shimamura tiến gần đến đôi vú. Đột nhiên tức giận vì cánh tay của mình đã không làm theo ý muốn, nàng cắn lên cánh tay mình dữ dội và mắng nhiếc nó:

“Thế là làm sao? Tao sẽ cho mày một trận! Đồ lười biếng! Vô dụng! Rồi biết tay tao!”

Shimamura kinh ngạc lui người lại. Trên cánh tay người con gái, chàng thấy những vết răng cắn sâu. Tuy nhiên, nàng không còn chống cự nữa và để mặc bàn tay chàng tự do. Rồi nàng lấy đầu ngón tay viết. Nàng nói nàng sẽ kể cho chàng biết tên những người nàng đã yêu. Trước hết nàng viết vào khoảng hai, ba mươi tên kịch sĩ, rồi đến tên Shimamura và cứ viết đi viết lại tên Shimamura mãi.

Dưới lòng bàn tay của Shimamura, da thịt người đàn bà căng phồng lên, ấm áp một cách đáng yêu.

Với một giọng vỗ về êm ấm, chàng dịu dàng nói. “Thôi nhé, đừng buồn nữa. Có cái gì đâu nào…” Chàng cảm động thấy ở nơi nàng một chút tình mẫu tử.

Nhưng sự đau nhức lại tái phát mãnh liệt trong đầu nàng. Nàng gập người lại vì đau đớn và dẫy dụa quay cuồng ngã vật xuống góc phòng rên rỉ:

“Không được đâu…Không được đâu. Trời ơi, tôi đau quá. Tôi muốn đi về, đi về nhà…”

“Đường xa như vậy, làm sao đi nổi được. Cô có nghe thấy mưa như thế nào không?”

“Tôi sẽ đi chân đất, bò lê mà về. Tôi phải về mới được.”

“Hơi nguy hiểm, cô thấy không? Nếu có bắt buộc phải đi về, tôi sẽ đưa cô về”

Lữ quán ở trên đồi và con đường đi xuống thôn phía dưới chạy theo sườn núi dốc ngược.

“Cô hãy nới đai bụng ra một chút để nghỉ ngơi. Chẳng mấy chốc, cô sẽ thấy khỏe trong người và có thể đi về được”.

“Không, không. Phải làm như thế này mới được. Tôi đã quen rồi”.

Nàng nửa ngồi dậy ưỡn thẳng ngực cố gắng hít mạnh một hơi dài, nhưng sự gắng gượng đó đã làm nàng đau đớn rõ rệt. Nàng nói với Shimamura nàng hơi cảm thấy chóng mặt và chạy đến mở cửa sổ phía sau lưng, cúi xuống định nôn ra nhưng không được. Nàng hết sức gượng để khỏi ngã lăn xuống sàn nhà, để khỏi gục ngã hẳn. Và mỗi lần lấy lại sức được một chút, nàng lại lảm nhảm nhắc đi nhắc lại. “Tôi đi về đây. Tôi phải về mới được”. Như vậy mãi cho đến hơn hai giờ sang lúc nào không hay.

“Ông đi ngủ đi. Tôi đã bảo là ông cứ đi ngủ mà” Nàng khẩn khoản nói. “Thế còn cô thì làm gì?” Shimamura lo ngại hỏi.

“Thì cứ ngồi đây như thế này. Khi thấy hơi khoẻ trong người, tôi sẽ đi về.

Tôi sẽ về trước khi trời hửng sáng”.

Nàng bò lại phía Shimamura và lấy tay kéo áo chàng.

“Tôi đã bảo mà. Thôi đi ngủ đi! Đừng lo cho tôi nữa. Cứ ngủ yên đi”.

Shimamura trở về giường nằm. Người đàn bà lom khom cúi xuống mặt bàn để uống thêm một ly nước.

“Dậy đi!” Nàng đứng trước giường ra lệnh. “Hãy đứng dậy khi có người yêu cầu ta.”

“Cô muốn tôi làm gì bây giờ đây?”

“Tôi đã nói cái gì nhỉ? Thôi ông cứ việc đi ngủ đi”.

“Cô chẳng biết điều chút nào cả”. Vừa nói, Shimamura vừa kéo nàng lại phía mình.

Thoạt đầu nằm bên cạnh chàng, nàng đã ngoảnh mặt đi hướng khác. Một lát sau nàng quay phắt lại đưa môi cho chàng hôn.

Sau đó nàng đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần với chàng, như thể trong một cơn mê sảng mà nàng muốn thổ lộ tất cả nỗi đau đớn:

“Không, đừng anh Anh chẳng bảo chúng mình chỉ nên là bạn thôi là gì?”

Giọng nàng nói có một vẻ trầm trọng, trang nghiêm đầy xúc cảm đến độ làm cho sự ham muốn của chàng phải nhụt bớt và khi thấy vẻ mặt nàng căng thẳng với những nếp trán nhăn lại trong niềm cố gắng tuyệt vọng để lấy lại bình tĩnh và tự chủ, trong một giây phút, chàng đã nghĩ đến lời hứa cần phải giữ.

“Với em” nàng thì thầm, “em sẽ không hối tiếc. Không bao giờ em sẽ hối tiếc cả. Nhưng em cũng không phải là một người đàn bà như vậy đâu… Một cuộc phiêu lưu không có ngày mai… không thể bền vững được… Chính anh chẳng nói như thế với em hay sao?.”

Nàng hãy còn bay bổng trong hơi rượu:

“Lỗi tại anh chứ không phải tại em đâu nhé. Anh đã thua rồi… Người yếu mềm chính là anh. Không phải em.”

Trong giây lát, nàng gần như mê man và cắn vào tay áo mình dữ dội, như thể muốn cưỡng lại hạnh phúc một cách điên cuồng, như thể khước từ niềm sung sướng tuyệt vời.

Trong một lúc lâu, nàng không nói gì nữa, như người cảm thấy thoải mái, yên tĩnh và dường như không còn chút tình cảm nào. Rồi bỗng nhiên như chợt nhớ một điều gì từ sâu trong ký ức, nàng nói:

“Anh đùa bỡn, phải không? Anh đùa bỡn em!”

“Đâu có.”

“Trong thâm tâm anh, anh đùa bỡn em: nếu không phải bây giờ thì sau này.”

Đôi mắt nàng đầm đìa nước mắt và nàng ngoảnh đi úp mặt vào gối. Những tiếng nức nở bặt dần và một lát sau, trong một niềm thân mật tin tưởng, nàng bắt đầu kể cho chàng nghe tất cả cuộc đời nàng, như thể nàng muốn phó thác hẳn đời mình cho chàng. Nàng dường như đã quên mất những cơn nhức đầu và không hề đả động tới chuyện vừa xẩy ra.

“Thì giờ đi mau quá, anh nhỉ, em mải nói nên không để ý đến thì giờ”, nàng nói với một nụ cười e ấp. “Trời hãy còn tối, nhưng em phải về trước khi rạng đông. Ở đây người ta dậy sớm lắm.”

Nàng trở dậy nhiều lần đến bên cửa sổ ngó ra ngoài.

“Em còn đủ thì giờ đi về. Trời hãy còn tối, chẳng ai có thể nhìn thấy em hết. Trời lại mưa nữa, chắc sáng nay không có ai ra đồng.”

Nhưng nàng không muốn về. Và khi ánh sáng tinh mơ làm hiện ra ngọn núi còn mờ mịt qua làn mưa, rồi những mái nhà giữa rừng cây trên triền núi, nàng vẫn chưa dứt khoát. Sau hết, khi lữ quán sắp sửa khua động với những người hầu gái trở dậy bắt đầu công việc, nàng vội vã sửa qua mái tóc và thoát lẹ ra ngoài gần như chạy trốn.

Nàng đã không muốn để Shimamura tiễn nàng ra cửa như chàng có ý định làm, sợ có người nhìn thấy hai người với nhau.

Shimamura đã trở lại Tokyo cùng ngày hôm đó.

———-

1Lữ quán theo kiểu Nhật-bản thuần tây, phân biệt với những khách sạn theo kiểu Tây-phương.
2Một kiểu lò sưởi thông dụng ở Nhật-bản, gọi là Kotatsu, trông như một cái thùng lớn có phủ nệm bông dầy, dưới đặt lò than.
3Một thứ đàn cầm cổ truyền ba giây của các nàng geisha.
4Đai lưng quấn ngoài kimono của đàn bà, thường cứng và to bản, thắt cao lên gần ngực, gọi là obi.

Trình Bầy xuất bản 1969

(Nguồn : vietmessenger.com)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục