GIẢI THƯỞNG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 1939
Chương 4
Làng Thụy Khuê gần thành phố Hà Nội, làng này ăn dài và có một con đường cái chạy ra tỉnh. Hai bên đường là hai giẫy nhà lá của dân ở. Làng Thụy Khuê chia ra nhiều thôn nhiều xóm; Những xóm được nhiều người quen gọi là xóm Đông Bảng, xóm Ga, xóm Quản Tượng, và xóm Hàn Lâm. Làng Thụy Khuê không có ruộng nương để cầy cấy. Dân làng này sống bằng nghề đi làm. Xưa kia, lúc chưa có các nhà máy, thì cách sống của làng này đều trông vào nghề nấu rượu lậu cả. Sau các công sở mọc lên rải rác ở làng, họp thành nhân công của các lò máy. Từ khi có các nhà máy Điện, máy Da, máy Ruộm, làng Thụy Khuê trở nên vui vẻ và sầm uất. Các xóm nhà gianh đã lác đác có nhiều nhà gạch, Hai bên dẫy nhà, có nhiều người mở hàng tạp hóa bán. Xe điện chạy luôn luôn qua làng. Những buổi sáng, trưa, tối, chiều lại tấp nập những người làm công sở đổ về và đi. Ai cũng hốt hoảng chăm chỉ chú ý đến những tiếng còi sở thổi, rồi vào làm. Buổi về, đường cái lại nhộn nhịp tưng bừng những phu phen.
Buổi trưa hôm nay, Sơn làm ở sở bia Ô-men về. Hai má nàng đỏ bừng lên như say rượu. Nàng lảo đảo đi trên đường làng Thụy rồi rẽ vào xóm Đông Bảng là chỗ ngụ của cha nàng. Trời hạ, nắng chang chang, cây cối im phăng phắc. Không một cái gió mát, không tiếng ve kêu. Tiết giời oi ả, nồng nực im im. Không có một tiếng động nào khác tiếng trẻ con khóc. Xóm Đông Bảng đẫm mồ hôi. Những người đi làm về ai cũng uể oải khó chịu. Sơn ăn bữa cơm trưa thấy nhạt nhẽo vô vị, chán ngắc, chán ngơ và nó cứ khô khan ở cổ không buồn nuốt nữa. Ông Toản, cha nàng làm cu ly trong nhà máy Điện, ngồi bên bàn gần chỗ mâm của cô con gái, đang hút thuốc lào sòng sọc. Chốc, ông lại uống tợp nước vối hãm khói rồi thở ra đằng hai lỗ mũi một cách mạnh mẽ như hai cái ống chì vẫn nhả khói ở chiếc máy hơi chạy. Bất giác, tự nhiên Sơn mỉm cười. Nàng thấy lạ, trong lòng lại quặn lên một cảm giác mà Sơn khó phân tích được. Sơn chỉ biết là mình yêu Hiền mà thôi. Đã tới năm sáu tháng nay, từ dạo mùa đông năm ngoái, cứ ngày hai buổi, nàng đi làm về là thấy Hiền đứng trong nhà nhìn ra. Hai mắt sáng lên và nét mặt Hiền ngây ngây, lúc ấy nàng lại đỏ mặt đi lẫn vào trong đám đông người tay chao nón và hơi nhếch mép cười. Có một hôm, Sơn nghĩ thẹn và tức với Hiền, lúc ấy còi sở tan ra, Tây Đen gác ở cổng đang khám những người làm, đến lượt nàng, nàng nhìn ra thấy Hiền đứng ngoài cổng sở nhìn vào khiến nàng thẹn quá. Thẹn đổi ra tức, rồi thành ra ghét.
Hôm sau lúc sở tan về, Sơn không thấy Hiền đứng lảng vảng ở cổng có ý đón ngầm mình nữa. Nàng về qua xóm Ga, thấy Hiền đứng trong khung cửa sổ nhìn mình. Sơn mỉm cười nghĩ thầm:
– Anh chàng có ý tứ thật!
Nhưng Sơn cũng chưa biết là Hiền đã yêu nàng chưa, rồi buồn rầu, Sơn chép miệng:
– Người ta là con nhà giầu có, ai người ta thèm yêu thương lấy đến mình!…
Nghĩ ngợi Sơn lại mỉm cười lấy chiếc gương con ở trong túi ra soi. Mặt nàng hồng hồng, hai con mắt đen lay láy, nước da trắng ngần. Sơn nghĩ thầm:
– Không trách, hai mắt anh chàng híp lại là phải!
Tiếng tích-tắc của chiếc đồng hồ báo thức để trên bàn vẫn đều đều rõ ràng trong làn không khí yên lặng buổi trưa hè. Hai tay ông Toản trống nẹ, vẻ mặt suy nghĩ. Ông lo kỳ tiền tới không biết bà Xoan có cho ông chịu lại mấy đồng bạc gạo để ông gửi số tiền ấy về quê đóng sưu không? Ông nghĩ khéo lạy van, may ra cũng được. Nhưng rồi ông biết thế nào cũng phải chịu lại mặc dầu là tiền ông ăn gạo ngữ. Bà Xoan, một người chuyên môn bán gạo cho thợ làm ở các nhà máy vùng này. Nhà bà ở xóm Đông Bảng và giầu nhất xóm. Một cái nhà ngói bát vạn kiểu cổ Annam. Xung quanh tường và cái cổng gạch to tướng có nhiều mảnh chai cắm sáng quắc. Người bà Xoan béo nục nịch hay đi xe nhà. Nhiều người có nợ trông thấy bà hay trốn. Vì bà ác tướng và hay chửi lắm. Kỳ tiền nào, bà cũng bệ vệ, khoan thai ra ngồi ở cổng sở xe điện nhặt tiền nợ. Cứ mỗi người thợ ở trong sở ra, bà lại nặng nề đứng túm xoắn lấy họ, đòi nợ. Lắm người phải nhăn nhó lạy van bà như tế sao.
– Con lạy bà, bà cho con khất đến kỳ sau. Tháng này con ốm, nghỉ mất dăm ngày nên túng quá!…
– Ốm! Sao không chết đi, có vài đồng bạc gạo cứ để người ta mỏi mồm. Tháng nào cũng xoen xoét, lạy với chả van. Ai lấy lạy của nhà anh!.. Nếu anh không bớt mà giả tôi ít nhiều, thì tháng này anh đừng có mang thúng lại mà lấy gạo nữa. Không ai có thừa của mà bán cho cái ngữ anh, dai như đỉa đói.
Bà quay mặt, hai tay vuốt mép giầu. Người cu ly cứ đứng nhăn nhó:
– Lạy bà, bà thương nhà con. Thật quả tháng này con chỉ lĩnh được có sáu đồng; chả tin bà hỏi ông ký phát lương mà xem.
– Thế tháng này anh lại không giả bớt được đồng nào phải không?
– Lạy bà! bà lại cho nhà con giả tiền lãi vậy.
Bà Xoan lấy làm bộ không bằng lòng:
– Lãi lờ con khỉ! tháng nào cũng giả lãi…
Thế là người cu ly ấy đã giả bà Xoan đồng hai bạc lãi trong số sáu đồng bạc gạo mà bác đã đọng lại của bà ta hai tháng nay. Bà Xoan lấy tiền lãi của người ta, mà bà cứ thản nhiên như bà lấy tiền lãi cho vay. Không trách nhà bà giầu to là phải!
Ông Toản nhìn đồng hồ thấy kim chỉ gần một giờ, ông thở dài cầm mũ đi làm. Ông dặn Sơn:
– Tháng này, Sơn cho thầy giật một đồng nhớ?
– Con có đâu! thầy vay làm gì?
– Tao gửi về quê đóng sưu!
Sơn nhăn mặt:
– Con không có.
Ông Toản quắc mắt lườm. Sơn nói:
– Tháng này con phải mua cái thắt lưng!…
– Mua thắt lưng để đi đánh đĩ à? Mày dờ hồn đấy!
Nàng sa sầm mặt, không nói gì. Ông Toản bước qua ngưỡng cửa đi làm. Sơn ngồi ngẩn rồi bỗng dưng nước mắt ở khóe chảy ra. Nàng khóc cái cảnh sống nghèo của nhà nàng chẳng được sung sướng, giầu có bằng ai. Mẹ nàng chết đi rồi, nếu không cũng chẳng đến nỗi phải sống khổ sở như thế này. Sơn còn nhớ ngày còn mẹ nàng dọn hàng cơm ở phố Mới. Ông bà Toản được có một mình Sơn cho đi học ở trường Thăng-Long. Rồi bà Toản phải cảm chết. Sơn phải thôi học. Vợ chết. Ông Toản lấy thêm nhiều vợ. Buôn bán thua lỗ và thường hay bị các bà vợ lẽ lừa. Ông Toản thành vỡ nợ, khánh kiệt gia sản. Ông mang Sơn lên làng Thụy Khuê, nhà ở xóm Đông Bảng. Ông xin làm cu ly nhà máy điện. Sơn ở nhà thổi cơm cho ông ăn. Sau vì cảnh sống túng bấn quá, nàng phải xin làm một chân rửa chai trong sở nhà máy rượu, lương tháng sáu đồng. Hai bố con đi làm, ai về trước phải thổi cơm, rồi chờ cùng ăn với nhau. Về buổi trưa, sở xe điện tan mười một giờ. Sở nhà bia tan mười hai giờ. Về buổi chiều, sở ô-men tan bốn rưỡi. Nhà ga xe điện tan sáu giờ; Sơn buồn rầu nghĩ giá cha nàng không say mê vợ lẽ thì cảnh đời của cha và nàng đâu phải sống lầm than như thế này. Tháng này, nàng cố nhịn quà lấy tiền mua thắt lưng mới, thay cái thắt lưng cũ để diện với Hiền. Mà cũng không được. Nàng biết số tiền để dành ấy thế nào cũng phải đưa cho cha nàng. Không nàng lại phải đòn.
Tu…tu… Tiếng còi một lượt của nhà Bia đã rục. Sơn uể oải vấn lại cái khăn rồi khoác chiếc áo dài đi làm. Qua xóm Ga, nhà Hiền, Sơn không nhìn vào để gặp cặp mắt của Hiền nữa. Sơn không hiểu sao buổi đi hôm nay, nàng thấy ghét Hiền thế. Nàng không hiểu nàng ghét về gì. Đến sở, Sơn ngạc nhiên thấy Hiền đương đứng nói chuyện với Thanh làm thợ sắt trong sở. Nàng còn bẽn lẽn đứng lẫn vào chỗ đông người. Sơn nghĩ thầm:
– Nếu lúc này mình có nhìn vào cũng chẳng thấy!
Sở nhà bia Ô-men ở về bên trái bên đường Parreau lối lên vòng đua ngựa. Sở này to, kiểu kiến trúc đẹp và sạch sẽ hơn các sở khác quanh vùng này. Nhân công là những người ở các làng gần sở. Như làng Lữ Giai, làng Đống Nước, làng Đại Yên và làng Thụy Khuê. Tiếng còi một lượt vừa rúc họ đã kéo nhau đến túc trực sẵn ở sở để chờ tiếng còi thứ hai là vào làm. Trước cổng sở dưới bóng cây me chua che nắng, những người làm công đứng túm tụm từng tốp chỗ hai ba người, chỗ năm sáu người, đàn ông lẫn đàn bà, họ nói chuyện pha trò rất vui vẻ. Và cô hàng quà trẻ tuổi bán luôn tay và cười luôn miệng.
– Thế nào, bánh này của cô có ngon không?
– Cô có bán bánh sữa không?
Cô hàng lại nhanh nhẩu mỉm cười:
– Không có ạ!
– Không à!
– Khỉ! cái nhà bác này!
– Ô hay, nỡm! trẻ con lắm.
– Mai em bán!
– Hì! Hì! Hì!
Mấy người thợ ngồi trong hàng ăn quà. Người hút thuốc lào, người nhăn nhở cười vì câu pha trò của bạn. Rồi ai nấy lại cười vang gọi tên nhau ầm ỹ. Chốc chốc, hai cặp mắt Hiền Sơn lại mạnh mẽ bắt lấy nhau sáng ngời. Thanh mỉm cười:
– Nhà “Mạnh thường quân” dạo này đã gầy đi rồi!…
Hiền cười:
– Thế mà sút bóng vẫn khỏe như thường!…
Một người hỏi bông Sơn:
– Bao giờ em Sơn lấy chồng cho anh ăn cỗ?
Nàng chép miệng nói to, cho Hiền nghe tiếng:
– Nhà em nghèo thì ai lấy!…
Nói xong, Sơn thấy mặt Hiền sầu, nàng sung sướng. Tu… tiếng còi ngắn lần thứ hai đã thổi. Người tràn ngầm ngập vào làm. Vừa đi, họ vừa pha trò, cười khanh khách. Hiền nhìn vào, Sơn nhìn ra; Bốn con mắt gặp nhau, hai miệng cười.
Chương 5
Bà Nhâm mặt tươi, hai tai nhí nhảnh đôi hoa tai vàng óng ánh. Bà ngồi tiếp chuyện các bà bạn. Miệng cười luôn luôn. Trong nhà, lúc này rầm rầm vang lên những tiếng nói. Họ ăn uống, cốc bát đũa chạm nhau. Chốc lại nổi một tràng pháo. Nhuận vai chú rể, vẻ mặt hớn hở. Chàng bận áo sa, đi giầy vernis, đầu rẽ lệch, chững chạc cái khăn. Và có mùi nước hoa ở trong người thoảng thơm mát. Hiền ngồi vặn kèn hát, chị Thảo và chị Nhâm chạy loăng quăng bưng nước dùng và các bát xào nấu đi các bàn các mâm. Không khí cưới xin rất đầm ấm và vui vẻ. Nắng mới tháng ba chạy ngoài cửa sổ sang sáng. Gió xuân nhẹ lọt vào làm rung động những bông hoa ở trên các bàn ăn. Hương trầm trên bàn thờ gia tiên tỏa ra thơm phức man mát. Bộ tam sự mới mua sáng loáng như mặt gương ẩn nắng hoe tươi ngoài cửa sổ. Ông Hai Cửu và ông anh giai bà Nhâm ngồi trên cái ghế ngựa kê dưới bàn thờ thi nhau uống rượu và hút thuốc. Hai người vừa uống rượu vừa hãm thuốc lào và nói chuyện với nhau.
Ông Hai Cửu:
– Gái góa như bà chị tôi đây, thật đáng được bốn chữ Tiết Hạnh Khả Phong!…
– Nếu không có tôi, mấy lần cô nó toan cải giá!…
Ông Cửu trừng mắt, nhăn mặt, cau có. Ông anh giai bà Nhâm thở xong khói thuốc lào, nói tiếp:
– Tôi phải đe… Nếu cô bước đi bước nữa, thì tôi mấy cô sẽ tuyệt đường nhân nghĩa cốt nhục!…
Ông Hai Cửu gật gù:
– Phải!.. Phải!..
Trong nhà đám, tiếng kèn thổi bài cười sằng sặc. Rồi lại đến bài âm điệu du dương thánh thót, êm ái.
Hiền cười đi vào. Mấy đứa trẻ đến nhặt pháo cười reo lên và làm trò đùa với Hiền. Hiền lại để một ngón tay lên mũi, có tiếng kêu:
– Ngoéo!
Đàn trẻ con ngửa mặt lên trời, cười khanh khách. Hiền mang bánh pháo, gỡ cho các trẻ. Hiền thấy chúng thích lắm.
Hôm sau là ngày đón dâu.
Nhà ông Hàn Kiệm, một căn nhà ngói hai tầng, ở giữa quãng xóm Quản Tượng. Nhà ông giầu. Ông gả Nguyệt cho Nhuận và làm thông gia với bà Nhâm. Thế mà nhiều người ngoài có tính hay nói nhảm lại bảo ông sở dĩ gả cô Nguyệt cho Nhuận là vì cô ấy ế chồng, nhiều tuổi rồi. Người ta lại thối mồm, thấy ông gả con gái mà chả ăn gì, nói chuyện bình phẩm với nhau:
– Hay là cô ấy đã ỏng rồi!
Nhuận lấy vợ con nhà giầu có, nhiều người nói là chuột sa chĩnh gạo!
Họ nhà gái tiếp họ nhà giai đến đón dâu rất niềm nở. Pháo đốt mừng luôn luôn. Chú rể là chỗ quen thuộc thường ra vào, lại chơi thân với Xung nên cũng không đến nỗi thẹn lắm. Lễ gia tiên xong, đến lễ tơ hồng. Một cái bàn đặt chéo ở sân, dưới dàn hoa thiên lý tây. Trên bàn bầy bộ tam sự bằng đồng. ở giữa bàn có một con gà sống nằm trên chiếc đĩa tây, miệng ngậm chiếc hoa hồng tươi, châu mỏ ra phía trước. Nhuận đứng lễ, hai bên là ông anh giai bà Nhâm và ông Hai Cửu. Mỗi người đứng một bên mép chiếu hoa miệng hò những câu tế bằng chữ nho. Ông Cửu vòng hai tay kiểu tay giấy ông Tiến sĩ hàng mã, giơ cao ngang trán.
– Hương.
Ông anh giai bà Nhâm lại:
– Bái.
Nhuận thong thả lên gối xuống gối lễ. Chàng lễ được bốn lễ ông Hai Cửu xướng một câu dài, để kết rồi đọc sớ.
– Bình thân phục vị, lễ sơ nhi tân hôn!
Ông anh giai bà Nhâm đọc sớ xong, ông mỉm cười quay gọi cô dâu ra lễ tơ hồng. Nàng vừa lễ vừa mỉm cười liếc mắt nhìn Nhuận.
Bà mụ mối ton ton nhanh nhẩu đến chỗ ông bà Hàn Kiệm, nói:
– Bẩm lạy cụ, bây giờ đến lượt hai cụ cho chú rể lại mừng tuổi, rồi xin phép cụ cho họ nhà giai đón dâu!…
Nhuận lễ hai ông bà nhạc song rồi rước dâu về…
Nguyệt đã là vợ Nhuận được ba tháng nay rồi. Hai người mến nhau lắm. Bà Nhâm hiền lành, thương con, Nguyệt sống dễ chịu. Nàng không xấu số như nhiều người khác, thường hay gặp mẹ chồng tai ác. Nhuận, Nguyệt lấy nhau, Hiền và bà Nhâm rất ngạc nhiên.
Bà Nhâm nói:
– Quái! tao tưởng không thành, sao người ta lại gả nhỉ?
– Con cũng thế, cũng ngạc nhiên như mẹ!
Bà Nhâm nói khẽ với Hiền:
– Hay là cô ả đã trót dại rồi!
Hiền cười, nói:
– Mẹ còn nhớ ông Kha không?
Bà Nhâm cười chẩy nước mắt. Hiền lảng ra và đi chơi, nghĩ đến mẹ, chàng mỉm cười. Đã bao lâu nay, bao lần chàng thường mang chuyện ông Kha ra nói khôi hài với mẹ. Là vì, Hiền biết, mẹ chàng xưa kia ngày còn con gái đã bị độc đoán trong tình yêu. Cái mối tình kín đáo của mẹ chàng với ông Kha ngày ấy, Hiền biết chắc đau khổ lắm. Có lẽ đã sống trong sự trái duyên đau khổ mới thương kẻ khác đau khổ vì trái duyên. Nên bà Nhâm thấy con và Nguyệt lấy nhau bà vui lắm. Bà thường nói:
– Giầu có thời làm gì, quý hồ lấy được nhau.
Sự kinh nghiệm, Hiền thấy mẹ đặt tình yêu thương lên hết cả mọi thứ ở đời. Đôi khi, bà thường nhắc lại đoạn đời khổ cho các con nghe. Bà nói cái đoạn bà góa chồng năm ba mươi tuổi bà thường đi bán gạo ở đường Cầu giấy, có một người muốn lấy bà, nhưng anh bà không cho lấy. Bà nói với các con sau khi các con bà đã nhớn và học hành chăm chỉ:
– Tao suýt lấy người ta!… Nếu tao lấy người ta thì chúng mày lại khổ. Ở thế nào được với chú mày, chú mày ác lắm. Ngày bố mày chết, tao kiếm chả nuôi nổi chúng mày tao có bảo nó nuôi thằng Nhuận, nó ừ ào bảo tao mang xuống hàng Kèn để nó nuôi. Được dăm ngày chả biết nó đánh mắng thằng Nhuận thế nào để nó phải về khóc kêu ở mấy chú khổ lắm.
Nhuận nghe chuyện cười, nói:
– Chú ấy còn phải nói!
Bà thấy nhiều người góa chồng khi tái giá các con nó hay khinh. Bà chép miệng:
– Giá tao đi lấy chồng, chúng mày chắc khinh tao lắm!
Hiền nói:
– Bao giờ mẹ cũng là mẹ. Dù mẹ tái giá hay mẹ ở vậy, chúng con vẫn là con của mẹ. Không bao giờ chúng con khinh mẹ cả. Có khi lại quý trọng mẹ hơn nữa!
Bà thở dài nói:
– Đứng vậy nuôi con ăn học, con mới nói thế chứ! giá mẹ có đi lấy chồng lại vác dao chém dượng, chửi cả mẹ như thằng Quý con giai bác Khang…
Hiền bật cười vì câu nói ví của mẹ. Bà Nhâm hay ví lắm. Bà muốn dạy con, thường hay lấy người khác ra để răn. Bà thấy một người ăn cắp. Bà cũng về nói với con:
– Thằng ăn cắp ấy bằng trạc thằng Hiền… Đấy không chịu học rồi cũng thế…
Bà mừng rằng đã nuôi nổi cho hai con ăn học bằng người. Nhuận học đã đỗ được bằng Sơ Học Pháp-Việt thì đi làm. Hiền vừa thi trượt cái bằng Cao Ðẳng Tiểu Học.
Hiền thơ thẩn đi chơi, nghĩ và biết mẹ, sở dĩ hay lấy câu “cái mả thằng bố” ra chửi chị Thảo cũng có một duyên cớ ở trong, là ngày còn con gái, bà Nhâm đã thất vọng tình yêu thứ nhất. Hiền thấy lòng không khinh ghét mẹ, mỗi khi tai chàng nghe thấy tiếng “cái mả thằng bố nhà mày”. Trái lại Hiền thấy thương mẹ là khác nữa. Ánh nắng hè lọt qua rặng sấu ở rìa đường rơi xuống thành những vũng tròn đốm nắng. Xe cộ vùn vụt qua, những đốm nắng nhẩy múa leo trèo đùa nhau trên mui xe rồi lại đứng im ở đường cái. Hiền vẫn thủng thẳng đi dưới rặng sấu râm mát trên hè đường Carnot. Mặt chàng buồn buồn như một nhân vật tiểu thuyết vẫn tả. Có tiếng chào, làm Hiền giật mình.
– Lạy anh ạ!
Hiền mỉm cười:
– Thím đi bán hàng về!
– Vâng!
Ái ngại, Hiền hỏi:
– Thế nào dạo này ông cụ có còn hay mắng thím nữa không?
– Khổ quá! anh ạ. Tôi chỉ muốn mong cho ông cụ chết đi. Ai lại bố chồng mà cứ san sát như mẹ chồng! Ít rượu, ít đồ ăn ngon là kiếm chuyện rồi réo chửi đến cả xóm cũng nghe tiếng…
Hiền cười tủm tỉm, nhìn vợ Mỹ. Nàng hỏi:
– Anh đi đâu?
– À tôi đi chơi.
– Anh cầm quyển gì đấy?
– Quyển sách chữ tây thím ạ.
– Bên nhà anh có quyển “Tố Tâm” không?
Hiền lắc đầu.
– Xem “Tố Tâm” khóc được đấy chứ… Tôi tiếc quá có quyển “Tố Tâm” để chó gậm mất quá nửa; bây giờ buồn không có sách xem. Chán quá!…
Hiền mỉm cười:
– Thím mua quyển khác?
– Chả hiệu sách nào có, em đã đi hỏi mua rồi. Tưởng bên anh thế nào cũng có?
– Trước tôi cũng có, cho họ mượn, bây giờ mất rồi.
Hiền biết quyển Tố Tâm của chàng, Mỹ lấy về. Hai người đi đến mé vườn Bách Thảo, vợ Mỹ chào Hiền, rồi nàng về xóm làng Ngọc Hà. Hiền trông theo vợ Mỹ lắc đầu. Cái thân hình bé nhỏ mặc áo đen dài kia, hai cái chân bước mau thoăn thoắt kia, sắp sửa đi vào cái xóm ấy. Hiền buồn rầu quay gót về làng Thụy Khuê.
Đêm hôm nay, Hiền thao thức khó ngủ, tình yêu Sơn lại cuộn lên trong lòng. Chàng nằm thẳng người, hai mắt lim dim để nhận những cảm giác thần tiên của ái tình. Rồi Hiền rất ngạc nhiên và tự hỏi sao chàng lại có tình yêu với Sơn một cách mau mạnh và đột ngột thế. Phải, nó đột ngột lắm, nó đến từ dạo trong năm, ngày nhà chàng vừa dọn về nhà mới được một tháng. Những buổi chiều đông ấy, Hiền thường đứng trong khung cửa sổ nhìn ra đường cái làng, xem phu về.
Bên ngoài Sơn đi làm về, nghe nghé hai con mắt nhìn vào. Hiền nhìn ra, nhếch mép cười rất đau đớn. Sơn có hiểu đâu là Hiền đang lo ngại cho nàng và cha nàng. Chàng yêu Sơn chóng mạnh thế, có lẽ tình thương chiếm nhiều hơn tình yêu. Năm tháng nay rồi! Lúc nào Hiền cũng nghĩ đến cha đã chết và một tấm lòng yêu Sơn, thương hại Sơn. Mỗi khi nghe thấy những tiếng còi rục rã của các nhà máy trong làng, lòng Hiền lại xao xuyến, tim đập, trí tưởng bâng khuâng. Yêu thương Sơn, Hiền yêu cả cái âm thanh của tiếng còi.
– Có lẽ tình yêu của ta và Sơn đến chóng mạnh, cũng vì ta cũng là một con người cu ly nhà máy như Sơn!
Hiền mỉm cười nghĩ đến quãng đời học sinh của chàng. Chàng cũng có yêu một cô, nhưng rất kiêu ngạo. Chỉ vì cô học sinh ấy là con nhà quan! Ngày ấy, Hiền học năm thứ ba ở trường Thăng Long. Liên và Hiền cùng ngồi một lớp. Tính nết Hiền vốn thực thà, ăn nói có duyên, nên các bạn cùng lớp ai cũng mến. Nhất là Liên. Ở trong lớp, một cử chỉ hay lời nào của Hiền phát ra là Liên cười tít mắt. Rồi nàng thấy yêu Hiền lắm. Nhưng nàng lại ghét Hiền có cái tính hay kiêu ngạo về tình. Đã bao lâu, Liên chỉ muốn Hiền viết thư cầu Liên yêu. Thế mà anh chàng chỉ lờ phờ lẳng lặng như chó phải dùi mỗi khi gặp Liên. Còn phần Hiền, chàng cũng thấy lòng mình yêu Liên. Nhưng cứ khi, chàng sắp viết thư để ngỏ tình, lại rút rát Liên đã ngồi trong ô tô với cha, chảy nước mắt nhìn Hiền lúc nàng gặp Hiền đi lang thang trên hè phố.
– Biết làm thế nào? Sao Liên không là con nhà bình thường?
Hiền quay gót rẽ vào một cái ngõ, tránh phải nhìn chiếc ô tô lộng lẫy có một cô con nhà quan ngồi trong đó yêu mình.
– Sơn thì ta dễ viết thư lắm.
Yêu Sơn, Hiền chỉ còn lo ngại không biết Sơn có đọc được chữ viết không? Chàng đã đi hỏi những bạn Sơn, cũng làm cọ chai trong sở Ô-men. Và Hiền rất mừng rằng Sơn cũng đọc được chữ viết.
– Cậu viết đến chữ tây, nó xem cũng được!
Hiền mỉm cười.
– Cậu đừng khinh thường người ta là con nhà lao động!
– Chết! Chết! Nếu tôi khinh sao tôi lại yêu!..
Nghĩ đến cách đối đáp của những người bạn gái của Sơn mấy tháng trước, chàng rất buồn cười.
– Mình cứ viết thư ngỏ yêu với Liên cũng như trăm nghìn người khác. Có hề gì đâu! Ai biết mình là con nhà cu ly.
Chàng đã ngây thơ, và không hiểu sao mình đã ngây thơ quá thế. Ngày ấy Hiền cũng đã hạ bút viết thư cho Liên bức thư ở trong cũng có nói: “Anh là con nhà cu ly..” Hiền mỉm cười thấy mình không bao giờ quên nguồn gốc. Chàng vội vàng xé nhầu nát bức thư ấy, và nhất định không bao giờ đưa thư cho Liên cả.
Chàng nhỏm dậy, thắp đèn, lấy bút viết thư. Hiền thấy viết thư ngỏ yêu với Sơn rất dễ dàng, cảm động. Xem lại lần nữa, Hiền gật gù lẩm bẩm:
– Mai nhờ người đưa cho Sơn!
Chương 6
Chiều thứ bẩy, ở những con đường bé nhỏ, ngòng ngoèo có lát gạch sạch sẽ của làng Đại Yên, Liễu Giai, Sơn và Hiền, Thanh và Quỳ, bốn người cùng đi chơi và nói chuyện. Gió chiều mùa hạ mát thoảng quá. Hai dải thắt lưng lụa đào của Sơn bay phấp phới. Nàng lon ton đi và nói chuyện với ba người lầu lầu. Có một câu pha trò nào của Hiền đậm, nàng lại cười mau và rất to. Hiền biết Sơn vui lắm. Nàng thường hay giục ba người nói chuyện mỗi khi thấy nín lặng cả. Từ hôm nhận được bức thư cầu yêu của Hiền nàng cảm động vui vẻ nhận lời yêu ngay. Và mỗi buổi, Sơn đi làm về là gặp Hiền đã lên đón cổng sở. Những buổi có Hiền lên đón ấy, Sơn về lại không ăn được cơm vì nàng cảm động quá, Sơn yêu Hiền thành thực lắm, và muốn lấy Hiền, Hiền cũng thế, cũng yêu bằng tấm tình thành thực, muốn lấy Sơn. “Yêu nhau phải lấy nhau, biết không thể lấy nhau được, thì đừng nên yêu nhau”. Câu ấy Hiền thường hay nói, khi chàng thấy Sơn tỏ vẻ nghi ngờ lòng yêu thành thực của chàng. Lâu dần, mỗi ngày gần nhau biết tính nết của nhau, hai người không có lòng nghi ngờ nữa, và Sơn biết Hiền là một người rất đứng đắn quân tử, không hay có dáng điệu lả lơi khi gần nàng. Hiền yêu rất cao thượng và trong sạch, Sơn hay nói với Quý thế. Quý bạn gái của Sơn cũng làm cọ chai đã yêu Thanh. Hai người này yêu nhau theo tính cách khác, không được tinh khiết như cặp Sơn-Hiền. Những buổi sáng mùa hạ mát và trong, Hiền thường dậy sớm và đứng cổng xóm Ga đón Sơn ở xóm Đông Bảng đi làm. Chàng thấy như có thú, đứng nhìn dáng Sơn đi, Sơn hay chạy hoảng khi nghe tiếng còi bên sở thổi. Sơn, Hiền vẫn gặp nhau ở làng Lữ Giai về chiều thứ bẩy. Là vì các cô làm nghề cọ chai ở đây, cứ mỗi tháng được lĩnh bốn lần tiền, vào quãng bốn chiều thứ bẩy. Sơn, Quý lĩnh tiền ở nhà bà đầu sở ra, Hiền, Thanh đến đón. Bốn người lại đi chơi thơ thẩn với nhau. Cảnh chiều hạ, bóng mặt trời đã khuất, những rặng mây mầu đằng tây nổi lên sáng chói, chiếu thẳng vào quả núi Trầm Mầm của làng Liễu Giai, đen sì những cây cối. Sở nhà rượu Bia sầm uất sàn sàn những mái nhà lợp kẽm màu xám, lợp tôn mầu bềnh bệch, lợp ngói màu đo đỏ đứng khuất sau rặng cây xanh ở phía quả núi. Vài cái ống khói thẳng vót lên trời. Và có nhiều khói trắng ở các máy nấu chạy rì rầm, bốc tỏa lên không nhẹ nhàng theo gió. Hiền, nét mặt trầm ngâm vẫn đi bên ba người giữ nín lặng. Sơn, một phụ nữ cần lao, ưa hoạt động, ưa nói, nàng không chịu được sự yên lặng trầm ngâm của Hiền. Sơn nhìn Hiền, giục:
– Nói đi chứ?
Hiền nhe răng cười.
Khi về nhà, Sơn ngồi nấu cơm trong bếp. Nàng suy nghĩ và cảm động thấy Hiền cũng có để ý đến cái đời làm ăn của nàng. Rồi nước mắt chan hòa, Sơn tưởng tượng và hy vọng đến một ngày kia, Hiền thi đỗ bằng thành chung được bổ làm giáo học hay đi làm thư ký ở một hãng buôn nào, lúc ấy nàng sẽ sung sướng, không phải sống cái đời hiện tại lầm than này nữa. Nàng mỉm cười, thấy Hiền yêu nàng, lắm bạn cùng sở ghét. Họ thường nói đến tai Sơn, mỗi khi tan sở thấy Hiền lên đón.
– Sau này, mày lấy nó, có làm nên bà nọ bà kia, đừng có quên tao, và cái sở Ô-mền này nhớ.
Những tiếng bắt đầu động vì là giờ của các phu đi làm về buổi tối đã vẳng lên ầm ĩ, lào xào, xôn xao ở các gia đình lao động ngụ trong xóm. Ông Toản cũng đã về, ông ngồi lờ đờ, mắt mơ màng say thuốc. Rồi chép miệng, ông lại thở dài lo lắng. Một tiếng hét của bà Xoan bên nhà bác lao động ở cạnh làm ông giật mình thon thót. Vội vàng, ông gọi cô con gái:
– Sơn!
Sơn ở bếp chạy lên.
– Hôm nay, con lĩnh được bao nhiêu?
– Con lĩnh được đồng rưỡi: Giả ba hào quà, còn đồng hai. Con xin hai hào lẻ, còn đưa thầy một đồng.
Ông lườm:
– Con gái mà ăn quà như vẹm! Có còn thừa đưa thầy mượn một đồng?
– Con có thừa đâu, nếu thừa con đã mua thắt lưng rồi!
Bên nhà hàng xóm, bà Xoan the thé hét:
– Không giả được thì bước đi chỗ khác, không có ai thừa nhà đâu cho các anh thuê thế được, có một đồng rưỡi bạc nhà cũng để dây ra làm mấy tháng.
Người cu ly túng thiếu thuê nhà của bà Xoan lại nhăn nhó:
– Bẩm lạy bà, bà cho chúng con giả lãi bà vậy!..
– Tôi cho anh thuê nhà, chứ có cho anh vay tiền đâu mà lấy lãi của anh.
– Bẩm bà, nhưng tháng này con chót tiêu hết cả.
Sau cùng bà Xoan lại lên mặt “nể vì” họ mà lấy cho mười năm xu tiền lãi trước trong số một đồng rưỡi bạc tiền nhà của họ thuê mà đã nằn nì xin bà cho khất đến kỳ tháng sau. Lúc lấy tiền lãi, bà Xoan đưa đẩy cái giọng lưỡi:
– Đến nhà ai, cũng giả lãi. Chả nhẽ tôi lại không lấy! Bác làm ăn thế nào mà có một đồng rưỡi bạc tiền nhà cũng để dây ra. Chắc lại đánh bạc thua phải không?
Người cu ly rúm người, nhăn nhó, nhe răng cười chảy nước mắt, bà Xoan nặng nề phành phạch xôm xoe quay ra cổng mau mắn một cách không ngờ. Rồi bà lại “nhẹ nhàng” bước vào nhà ông Toản. Sơn thấy bóng bà vào, vội vàng chạy xuống bếp tránh. Nàng ghét bà Xoan lắm. Đã có một lần, vào quãng kỳ tiền của nhà Ga trước, ông Toản lĩnh tiền, mải đi uống rượu thịt chó bên Ô Cầu Giấy chưa về. Sơn sốt ruột ngồi đợi cùng ăn cơm với cha. Những phút nàng nóng đợi cha ấy, nàng thường gắt nhau với u em, người nhà bà Xoan đến lấy tiền gạo ngữ! Chốc chốc, u em lại vào nhà hỏi Sơn:
– Thầy cô đã về chưa?
– Chưa u ạ! U về nói với bà để mai lấy cũng được.
– Không! Bà tôi bảo phải chờ lấy cho được.
Nàng tức ùa lên tận cổ.
– Ừ thì chờ, ai thèm quỵt ăn không của nhà bà ấy.
U em, chờ sốt ruột, về. Rồi chả biết nói với bà Xoan thế nào. Một lúc sau, bà Xoan hăm hở ẩy cái cửa liếp đan vào nhà Sơn, mạnh như luồng gió bão:
– Thằng bố mày về chưa?
– Thằng bố tôi chưa về, bà muốn lấy nợ thì chờ!
Bà Xoan kinh ngạc nhìn Sơn trừng trừng, rồi vẻ mặt bà hầm hầm.
– Mày về bảo bố mày muốn ăn gạo, thuê ở cái nhà này nữa thì đừng chây lười hỗn láo!..
– Bố tôi chả chây nợ hỗn láo với ai cả!
Nói xong Sơn ngoắt đít vào nhà.
Hôm sau ông Toản đến cau có lạy van bà Xoan:
– Cháu nó trẻ người non dạ, không biết gì xin bà đừng chấp…
Bà Xoan đã “uyển chuyển” bước vào tới nhà ông Toản. Thấy bà vào, ông vội vàng đứng dậy chắp tay cung kính chào. Rồi chẳng phải để cho bà Xoan phải đòi tiền nhà ông ở thuê, ông đã giở đồng bạc của con gái vừa lĩnh giả bà và nói:
– Cháu nó mới lĩnh được một đồng, con hãy gửi bà. Còn thiếu năm hào, bà cho đến thứ bẩy sau cháu nó lĩnh, con sẽ lại xin chu tất!
Lúc bà Xoan về, ra khỏi cổng, Sơn ở mé bếp đi lên, nàng lườm theo cái bóng béo của thân người bà Xoan, nguýt và chửi thầm.
Đến đình làng Thụy, ánh trăng nhấp nhô lấp lánh khuất sau rặng cây ở đằng xa phía trường Trung học Bảo Hộ. Gió hồ man mát, sóng hồ dập dềnh loáng mầu sáng trăng. Sơn và Hiền, hai người ngồi nói chuyện với nhau trên bờ hồ tây dưới gốc bóng một cây ngâu to dầy lá đứng kín đáo phía sau đình. Bên cửa kia, nhà bán rượu “Frégate” tưng bừng náo nhiệt trong ánh sáng của bao nhiêu thứ bóng đèn màu. Khách nhiều tiền và sang trọng, dắt tay nhau, sóng đôi đi vào uống rượu và giải trí ầm ập. Ngoài đường làng vẫn vùn vụt những ô tô kiểu lạ, mới, đẹp chạy lên. Được dịp cho các trẻ con trong làng Thụy, chạy ra tranh nhau xin giữ.
– Gardez ô tô, me sừ.
– Me sừ, Gardez ô tô.
Tan cuộc chơi, chúng lại được một hào hoặc năm xu của các khách có ô tô cho giữ. Ở một cái sân con trong nhà bán rượu, những cặp khách ôm nhau nhảy. Lúc nhẹ nhàng theo điệu tăng gô, lúc sang bài valse quay mau thoăn thoắt như nước xoáy. Điệu kèn âm thanh vẳng lên cao, lan vào gió rồi đi xa.
Ở đằng này, tâm hồn Hiền lâng lâng, hai mắt mơ mộng nhìn đáy hồ; trí nghĩ bâng khuâng, Sơn đờ đẫn, bàng hoàng nhìn Hiền. Giọng nàng trở nên run run:
– Anh Hiền.
– Sơn.
Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi lại thẹn thùng quay mặt đi chỗ khác.
– Anh, cho em về nhớ.
– Ngồi chơi tí nữa, Sơn ạ.
– Thôi, để hôm khác.
Hai người đứng dậy vẻ mặt đều buồn nản. Có hai tiếng thở dài se sẽ.
Đêm nằm ngủ nặng nề, Sơn thấy Hiền nằm cạnh ôm lấy mình. Nàng mỉm cười, biết vừa sống qua một giấc mơ. Sơn chép miệng:
– Đêm nay lại gặp Hiền!
Tiếng đồng hồ báo thức ở đằng bàn vẫn tíc tắc đều đều như muốn thủ thỉ với Sơn, làm nàng không ngủ được nữa. Sơn mở to mắt suy tưởng. Trí vẩn vơ, tự nhiên Sơn ứa nước mắt, kêu lên:
– Em khổ sở lắm, anh Hiền ơi! Rồi nàng khóc nức nở…
Thảo luận
Không có bình luận