thân tri biên tập từ Phật học Từ điển quyển nhất của Đoàn Trung Côn, xb1966, tr. 543-544.

Đầu-đà Tàu dịch : Đào-thải, Tu-trị, nghĩa là phủi bỏ ttấn-cấu của phiền não, khiến cầu Phật-đạo.
Về hạnh Đầu-đà, Kinh Ba-lỵ biên ra 13 mục, Kinh Tàu biên ra 12 mục :
- Tỳ-Kheo phải mặc Tam-y bằng vải dơ lượm được (Nạp y, Phấn tảo y).
- Tỳ-Kheo chỉ mặc nội Tam-y mà thôi (Tam-y, Đãn Tam-y).
- Tỳ-Kheo phải ăn vật thực mà mình đi xin (Khất thực, Thường khất thực).
- Tỳ-Kheo phải đi khất thực từng nhà (Mục nấy tùng the mục trên, cho nên trong kinh chữ Hán chẳng có chép ra).
- Tỳ-Kheo phải ngồi một chỗ mà ăn, đứng dậy thì hết ăn (Nhứt tọa thực, Nhứt thực).
- Tỳ-Kheo chỉ ăn vật thực trong bát của mình đã xin được (Nhứt sủy thực, Tiết lượng thực).
- Tỳ-Kheo hễ thôi ăn giờ ngọ rồi thì không ăn trở lại trong ngày (Bất tác dư thực).
- Tỳ-Kheo phải ở nơi rừng vắng (A-lan-nhã xứ, dịch là : Viễn-ly xứ, Không-nhàn xứ).
- Tỳ-Kheo phải ở nơi cội cây (Thọ hạ tọa).
- Tỳ-Kheo phải đứng và ngồi nơi chỗ trống, không ở dưới bóng cây, không có che lợp (Lộ địa tọa).
- Tỳ-Kheo ở nơi mồ mả (Trủng gian tọa).
- Tỳ-Kheo ở nơi có Giáo-hội định (Tùy tọa).
- Tỳ-Kheo đứng và ngồi từ mặt trời lặn cho tới mặt trời mọc, chớ không được nằm. (Thường tọa bất ngọa).
Theo trong kinh Phạm-Võng (Bồ-tát Giái, điều Khinh-giái 37) có chép : Phật-tử thường năm nên tu hai kỳ Đầu-đà : Kỳ thứ nhứt từ rằm tháng giêng tới rằm tháng ba; Kỳ thứ nhì từ rằm tháng tám tới rằm tháng mười. Như lúc hành Đầu-đà, đừng vô những nơi nguy nan như là : cõi nước dữ, vua hung bạo, đất đai chỗ thấp chỗ cao, cây cỏ rậm rạp, sư tử, cọp, sói, nước lụt, hỏa tai, bão tố.
Đầu-đà đệ nhứt : Người khéo giữ hạnh đầu-đà hơn hết trong hàng đệ tử xuất gia của Phật. Tiếng mà Phật Thích-Ca dùng để khen hạnh tu của ông Ma-ha Ca-Diếp. Đó là hạnh tu sở trường của ông ấy. Trong 1.250 vị Tỳ-Kheo của Phật, có 10 vị được xưng là đệ nhứt; trong 10 vị ấy, ông Ma-ha Ca-Diếp được xưng là Đầu-đà đệ nhứt hoặc Đầu-đà vi tối. (tt)
Thảo luận
Không có bình luận