Viết về tổ chức quân đội của Nhà Nguyễn, sử gia lão thành Trần Trọng Kim ghi rằng “Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc.” (Việt Nam sử lược II, tr.173). Các người viết sử đi sau ông cũng lặp lại như thế (Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư) mà không một chút thắc mắc.
Riêng tôi, khi đọc mấy giòng này, không khỏi lấy làm lạ. Quân số một vệ thân binh là 500 người, tương đương một tiểu đoàn ngày nay, vậy mà phải dành hết 50 người , nghĩa là 1/10 lực lượng, tương đương một trung đội, để chuyên trách về âm nhạc. Nhạc gì mà lạ vậy?
Hễ nói đến Nhà Tây Sơn, hầu như ai cũng liên tưởng đến võ Bình Định và bài trống thúc quân góp phần chiến thắng trong các trận oanh liệt chống xâm lăng mà ngày nay người ta gọi là nhạc võ Tây Sơn.
Còn với triều Nguyễn, nhạc gì mà một đội quân 500 người thì hết 50 người diễn tập âm nhạc? Nhạc với chiêng, trống, thanh la hay nhạc với các loại đàn nguyệt, đàn nhị, kèn bầu, sáo trúc, v.v??
Đầu thế kỷ XX, một doanh gia thuộc địa nhưng cũng là một cây bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH), H.Cosserat, đã viết một bài ngắn nêu lên cái thắc mắc về sự nghịch lý mà ông đã chứng kiến khi ở Huế. Ấy là ban nhạc của triều đình sử dụng trống theo kiểu tây phương để trình tấu nhạc Việt (BAVH, No2,1920, Notes sur les tambours royaux de Hue). Làm sao trống Tây lại có mặt trong nhạc “Annam”? Sao cách mang trống trước bụng với quai đeo qua vai và lối sử dụng hai cái dùi đánh trống giống lính nhạc của Pháp thế? (như hình ảnh Cosserat đã thấy và họa sĩ Tôn Thất Sa ghi lại trong BAVH)
Mãi sau, nhờ đọc hồi ký về chuyến du hành của tàu Henry do thuyền trưởng Rey điều khiển, đến Huế năm 1819, đời Gia Long (Relation du deuxième voyage de Henry, capitaine Rey, à la Cochinchine) Cosserat mới thấy hé lộ vài điều. Trong thời gian tàu neo bến, vua có cho hai người lên tàu học cách đánh trống. Sau đó, Cosserat lại khám phá thêm trong kho của một võ quan trong Kinh thành Huế có 3 cái trống Tây; tất cả giống nhau ở 3 điểm: mặt trống bằng da, căng bằng dây, tang trống bằng đồng và mang huy hiệu hoa huệ của hoàng gia Pháp (xem hình). Ba cái trống này, một cái lớn (đường kính 34cm, cao 30cm) và hai cái nhỏ (đường kính 32cm, cao 28cm). Phải chăng đây là quà tặng ngoại giao của hoàng gia Pháp ?
Thực ra, nếu đọc kỹ Minh Mạng Chính Yếu hoặc Đại Nam Thực Lục triều Minh Mạng hoặc Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (phần Bộ Binh) thì sẽ có thể tìm thấy ngay câu trả lời, khỏi phải đoán xa đoán gần lôi thôi.
Nhà Nguyễn gọi việc trang bị võ khí và quân dụng cho các đơn vị quân đội là binh trượng. Đời Gia Long (1802-1819), binh trượng của các đơn vị, như vệ (tại Kinh đô) và cơ (tại các trấn, sau gọi là tỉnh), ngoài các thứ võ khí như súng điểu thương, súng thần công, gươm, đao, giáo, còn được cấp 5 cái trống trận, 2 cái kèn, một cái còi hiệu bằng đồng và một đôi bạt đồng. “ Trong mỗi doanh, chọn ra 50 tên biền binh, kén người am hiểu chỉ bảo diễn tập quân nhạc, để làm hiệu lệnh tiến đi, dừng lại, bước và đánh.” (Hội điển V, tr.377)
Doanh hay dinh là một đại đơn vị, quân số khoảng 5,000 người, gồm 10 vệ hay 10 cơ, do một Thống chế chỉ huy. Vậy thì một doanh có một đội quân nhạc 50 người nghe còn có lý chứ một vệ 500 người mà có đội quân nhạc 50 người như cụ Trần đã ghi thì lấy ai đánh giặc??
Khi Hội điển ghi một vệ hay cơ được cấp 5 cái trống trận, 2 cái kèn, và một đôi bạt đồng (xập xõa, não bạt) thì ta hiểu ngay đấy là các loại nhạc khí Tây phương như ta thường thấy trong các ban quân nhạc của họ chứ chẳng phải là nhạc khí Việt Nam. Mặc dầu ban cổ nhạc Việt có cái kèn bầu (xem hình) thường nghe thổi ò í e trong phường bát âm nhưng chắc chắn cái kèn bầu này không thể có mặt trong quân nhạc, mà đó phải là loại kèn đồng Tây phương, kèn trompette (xem hình), với âm thanh sang sảng giữa chốn chiến trường ba quân!
Đến đây thì ta có thể nói được rằng quân nhạc thời Nhà Nguyễn là quân nhạc Tây phương với 3 nhạc khí căn bản là kèn đồng, trống Tây và não bạt đồng. Ai đã từng xem các phim do Hollywood sản xuất, diễn lại các trận đánh ở châu Âu hay châu Mỹ vào cuối thế kỷ XVII và trong thế kỷ XIX thì đều thấy vai trò của các loại nhạc khí này trong việc ra lệnh tiến thối trên chiến trường như thế nào.
Việc Nhà Nguyễn, ngay từ thời vua Gia Long đang còn là Nguyễn Vương chiến đấu với Tây Sơn đã dùng quân nhạc Tây phương trong quân đội không phải là một điều phỏng đoán mà chính do vua Minh Mạng xác nhận. Trong dịp duyệt binh vào năm Minh Mạng thứ 19 (1838), vua phán bảo Bộ Binh:
“Khi diễn binh, có âm nhạc và trống. Từ đời tiên đế ta [vua Gia Long] mới dùng phép của Tây-dương. Dù lâm trận đối địch, nhanh bước tiến lui, nên tùy cơ ứng biến. Không cần phải nhất luật y theo tiếng âm nhạc để huấn luyện quân sĩ. Nhưng nghe âm nhạc cho có tiết tấu cũng không thể không có vậy.” (Chánh yếu III, tr.209)
Ngay từ năm Minh Mạng thứ 18 (1837), sau khi nghe trống quân nhạc đánh lên trong lễ duyệt binh, vua chỉ thị rằng các loại trống Tây phương cấp cho các đơn vị có tang trống làm bằng gỗ, dây buộc chung quanh là dây gai, vì vậy tiếng trống đánh ra không được vang, vậy Bộ Binh phải xét làm lại, cho chế tang trống bằng tre, dây buộc bằng da trâu, cần tròn và chặt, để tiếng trống đánh được mạnh. Trái lệnh bị phạt 80 trượng.
Qua năm Minh Mạng thứ 19 (1839), sau khi dự duyệt binh, vua thấy trống trận do các vệ đánh lên không hùng, không mạnh, không thành thạo, nên ra lệnh cho Bộ Binh phải phái người thành thạo đi các đơn vị huấn luyện lính quân nhạc cho thuần thục, nếu không, sẽ bị trừng phạt.
Như vậy, quân nhạc Nhà Nguyễn là quân nhạc Tây phương là sự thực hiển nhiên.
*
Câu hỏi được đặt ra ở đây là quân nhạc này được du nhập từ hồi nào? Thời vua Gia Long đang còn là Nguyễn Vương chống nhau với Tây Sơn (1778-1801), hay thời Gia Long đã thống nhất đất nước (1802-1819)?
Có thể tin rằng ngay tử thời đang còn chống Tây Sơn, do nhu cầu chiến trường và dưới ảnh hưởng của các sĩ quan Pháp theo Giám mục Bá Đa Lộc về đầu quân dưới trướng, Nguyễn Vương đã du nhập quân nhạc Tây phương, vừa phù hợp với việc huấn luyện quân sự của các sĩ quan này vừa tiện điều binh khiển tướng, vừa dễ dàng phân biệt với hiệu lệnh trong quân đội Tây Sơn khi lâm trận. Ngày xưa, người ta dùng trống để thúc quân tiến lên và dùng chiêng để ra hiệu lệnh thu quân, rút lui.
Có một chi tiết nhỏ trong Đại Nam Thực lục triều Gia Long cho thấy loại quân nhạc này đã đắc dụng trong quân đội thời bấy giờ như thế nào. Ấy là năm 1802, sau khi ban bố niên hiệu mới, một mặt vua chuẫn bị đại quân tiến ra Bắc dứt điểm Tây Sơn – Quang Toản, một mặt ra lệnh cho Lê Văn Duyệt tái chiếm thành Bình Định mà hai tướng Tây Sơn là Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đã đánh chiếm từ năm 1801. Vua “…sai đem cho kèn hiệu và trống trận để làm hiệu lệnh hô quân …” và giục Lê Văn Duyệt ra quân (Thực lục I, tr.481)
Việc Nhà Nguyễn áp dụng quân nhạc Tây phương là một thực tế trong lịch sử nhưng hầu như không có một sách sử Việt Nam nào nói đến một cách minh bạch. Đáng tiếc là khi chúng ta biết được điều này thì không còn nhân chứng nào trong quân nhạc Nhà Nguyễn để giúp chúng ta hiểu sâu hơn nữa!
Khi đế chế đang còn (trước tháng 8 năm 1945), tôi có một người bà con bên ngoại, mẹ tôi gọi bằng anh, là lính trong đội kèn đồng của triều đình. Ông chỉ chuyên chơi bộ xập xõa (bạt đồng) của ban nhạc. Tôi hỏi mẹ tôi sao cậu không đánh trống thổi kèn cho oai mà lại đi đánh xập xõa, chán chết. Mẹ tôi nói : “Ông bà Cửu phải tốn tiền thì cậu mới được đánh xập xõa đó con. Cậu người gầy ốm, thổi kèn nhiều sợ ho lao, còn đánh trống thì mang nặng” À ra thế. Bấy giờ ở Huế có hai đội quân nhạc, một của Pháp và một của triều đình Huế. Trong khi ban quân nhạc của Tây mặc quân phục trông rất oai phong thì ban quân nhạc của triều đình vẫn còn áo dấu nón gỏ, như thấy trong ảnh mặc dầu trong tay đang sử dụng nhạc khí Tây phương và trình tấu theo nhạc lý Tây phương./
Tài liệu tham khảo:
– Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH), No3, 1920
– Minh Mạng Chính Yếu, tập III, bản dịch tiếng Việt, Saigon, 1974.
– Võ Hương-An,Từ Điển Nhà Nguyễn, Nam Việt, 2012
– NỘI CÁC TRIỀU NGUYỄN, Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ (gọi tắt Hội điển), bản dịch của Viện Sử Học, tập 5 Bộ Binh, Nxb Thuận Hóa, 2005
(Trích “Trong ngõ ngách sử Việt” của Võ Hương An, Nam Việt xuất bản, 2014)
(Nguồn : Tác giả gửi)





Thảo luận
Không có bình luận