Trích từ tác phẩm “Dỡ mắm” của Vương Hồng Sển,
thân tri biên tập
Nhơn đọc lẹ quyển hồi ký của ông Paul Doumer thuật lại những năm ông qua đây làm Toàn quyền coi sóc Đông Dương, .. xin dịch sơ lại đây cảm tưởng của ông Doumer về ngài Thành Thái, cho thấy ông có con mắt biết người chớ không “sớn sác” như nhiều ông khác.
“Năm 1897, vua Thành Thái trị vì đã được tám năm, tức vị năm 1889, và còn vài tháng nữa sắp bước vào tuổi trưởng thành bên nước An-Nam. Vậy phải nghiên cứu về tánh tình, về sở thích, về ý muốn của ngài, để hoặc dùng ngài làm cộng sự viên cho nhiệm vụ khai hóa của chánh phủ Pháp, hoặc biến ngài nên một vua an vui tọa hưởng lạc thú, xa hoa, ngôi sang hoàng đế hữu danh vô vị.
Trong vài giờ nữa đây, tôi sẽ giáp mặt vị vua trẻ tuổi nầy, vị ấu vương đang cầm đầu vận mạng nước Nam nầy, một ấu hoàng mà tôi cần xem xét kỹ lưỡng về cốt cách giống nòi hơn là cứ tin theo tiếng đồn do miệng các quan lại Pháp ở Đông Dương phúc trình. Vả lại người thân sinh của vị vua bé thơ nầy, vốn là dưỡng tử, là người thừa nghiệp có di chiếu tiên đế Tự Đức để lại, người cha bạc phước ấy, trước đây vửa tỏ có thiện cảm đối với nước Pháp ta thì chết, có lẽ ắt bị bọn địch thủ của ta sát hại và chưa được trị vì giờ phút nào. Dường như cho đến ngày lên ngôi báu, buổi ấu niên của ngài Thành Thái vẫn cơ cực, u tối lắm, gần như cùng khổ. Ngài phải sống chung với anh em trai như gái, không khác những trẻ nghèo mạt đất Huế. Bỗng không, ngài được cất nhắc lên ngôi vua, rồi ngài bị bao vây nào thầy dạy, nào cố vấn. Những người nầy chuyên giáo huấn ngài về Hán tự, về lịch sử các nước bên Đông Á, chút ít sử qua loa vài nước phương khác trên hoàn cầu, và luôn luôn họ dồn nhắc ngài về phận sự làm hoàng đế, phận sự vua đối với lễ tắc, và lễ tắc mới là điều cần nhứt. Hại thay, những điều giáo hóa ấy lại đem giảng dạy trước sự hiện diện sát cánh hoàng cung của bọn người lang-sa đầy quyền lực, hống hách, đi đứng tự do, không theo lễ phép, không cần có dây thắng.
Bao nhiêu việc hỗn độn như vậy đã nhiễm ông vua trẻ, tuổi vừa 18 xuân xanh và đã biến ngài ra thế nào? Ra một hoàng đế khát máu ư? Một cuồng vương hành động nông nổi gần như điên chăng? Đó là theo dư luận của phần đông người Pháp tại đây nói với tôi, và những tiếng đồn ấy vần chuyền lần lan rộng ra mãi, lập đi lập lại mãi mãi. Chính ông khâm sứ Brière cũng cảm tưởng không tốt đối với Thành Thái, duy khâm sứ nói một cách dè dặt hơn. Khâm sứ kể mỗi khi ngài lên cơn cuồng nộ dâm dật (férocité érotique) mà những việc ấy vẫn diễn ra gần như thường ngày, thì ngài có thể đánh đập hành hạ cung tần đến chết người, và có đêm, ngài bỏ cung lẻn ra ngoại thành làm việc dâm ô … Ông tiền nhiệm toàn quyền trước tôi, cũng đã loan những tin như vậy tại Paris, trong các phủ bộ và những nhóm am hiểu về thuộc địa.
Ngày 11-3-1897, lần đầu tiên tôi giáp mặt với vua Thành Thái trong một buổi lễ long trọng. Tôi sang sông Hương, vừa lên bờ là một cuộc nghi lễ tiếp rước bắt đầu. Từ bờ sông đến thành vua có mấy trăm thước, mà hai hàng quân sĩ Pháp đứng dàn hầu hai bên đường đi, kèn thổi súng nổ rình rang … Thành Huế thật đồ sộ, vách cao, cửa rộng, hùng vĩ xứng đáng theo kiểu thức Vauban. Trong thành, chỉ có Thành Nội chỗ vua ngự là vĩ đại, chung quanh chỉ có dinh thự to có và bé thấp có, là dinh thự công phủ hoặc phủ đệ các quan phụ chánh, lục bộ đài quan, trại lính, kho lẫm, … và xưa kia có cả xưởng đúc tiền đúc súng. Từ năm biến cố 1885, trong thành hư hao nhiều và nay cái “cung điện Versailles” của Huế nầy chỉ gồm cảnh điêu tàn và những lộng lẫy lạ mắt như nay tôi được thấy. Khi đoàn kỵ mã và công xa của chúng tôi tới nơi cửa thành vua, thì bên triều đình Huế bày cuộc tiếp rước : lính vua nó đỏ giáo nhọn gươm trường, các quan võ vừa lanh lẹ vừa lộn xộn trong những bộ nhung phục thêu chỉ vàng, rực rỡ thật nhưng không được gọn. Giàn nhạc vua trổi giọng nghe những tiếng ét tai, tiếng kèn lạ mắt ăn nhịp thep sanh gỗ. Điệu nhạc nầy vẫn rất gần nhạc Trung Quốc và không mấy thuận lỗ nhĩ Tây Âu, mới nghe lần đầu có lẽ chỏi tai là khác, vì gồm tiếng thét óc-o, nhưng cũng có nhiều đoạn vắn vắn lập đi lập lại vui vui. Bây giờ chúng tôi đã đi đến trước cửa Thành Nội, và đó là một vuông thành nhỏ kiểu Á Đông xây trong một thành lớn kiểu Pháp thế kỷ thứ 18. Chúng tôi dừng bước nơi cửa trước, và gồm độ 30 người Pháp, quan văn mặc đại phục đen huy chương nhiều thứ, quan võ vận nhung phục đại lễ, nhưng võ quan nhiều hơn văn, vì các quan võ trong thành đều nhập vào đây với đại tá Nicolas và thiếu úy Dubosc là tùy giá quan theo tôi vào đây. Đoàn của tôi và đoàn lính vua ăn mặt lạ mắt, nhập lại và đều dừng bước tại đây. Các ông phụ chánh tiếp chúng tôi và đưa qua một điện rộng lớn, có hơi tối, trông không gì đặc sắc, duy nhớ có nhiều cột gỗ to, dẫn qua nhiều cửa rộng, kế đến sân trong. Nơi đây mới quả là một cảnh huy hoàng, lộng lẫy, có thể nói là uy nghi không thể tả, – một cảnh tượng nghi vệ Á Đông không bao giờ thấy lại lần nữa, nơi đây cũng như nơi nào khác, vừa rực rỡ huy hoàng nhưng cũng vừa hùng tráng nhưng u buồn bạc nhược lẫn lộn, chứng tỏ một thế lực đã hết lúc mạnh và bắt đầu suy chăng?
Một cái sân to rộng ba bề bao bọc ba dãy lâu đài, gồm tòa vừa trẩy qua và tòa đối diện thì xây trên nền cao, giữa sân có dựng cửa tam quan cột đồng khảm mảnh sứ điểm tô rất mỹ thuật. Tòa đối diện vừa nói là điện vua ngự, và vua cùng triều thần đang đứng trước điện để nghinh tiếp chúng tôi. Nơi bên tay trái , và trước dãy nhà thấp bọc bên đó, thấy đứng chực các quan mặc đại phục, nhưng họ vẫn đứng ung dung không cứng ngắt như sơn đá sắp hàng hai kia đâu. Nơi bên tay mặt, phía sau lưng là vườn tược cây tươi và một góc trời xanh thắm, cũng có quan đứng hầu, nhưng phần đong đây là võ quan và đoàn voi chiến của vua như sắp ra trận, cặp ngà có đeo khâu bằng vàng, chơn voi cũng đeo vòng bằng vàng, và trên lưng voi có phủ yên lụa viền đường biên chỉ vàng rực rỡ. Mấy con tượng to lớn quá cỡ nầy, đều trang sức như thần tượng, xem thấy phải khiếp và rất cân xứng với đám người áo mão đủ màu thêu vàng chói mắt ấy. Không ai không nhìn nhận quả đó là cảnh lạ mắt dưới cảnh trời tươi dịu mây nhẹ trắng trong hôm ấy. Đức vua vận ngự bào quí trọng hơn các quan chầu hầu. Đầu ngài đội mão cứng gần như nón các của ta, chơn ngài đi giày da có ống cao đến gối, đế rất dày bằng nỉ êm, long bào màu vàng và có thêu chỉ vàng, phủ lên giày, nơi lưng vua có thắt sợi ngọc đái nạm nhiều ngọc và kim cương quí báu. Đức vua đeo huy chương vàng và ngọc và dây băng bửu tinh Pháp (grand cordon de la Légion d’Honneur). Đúng là hết sức huy hoàng, nhưng phải nói cũng là kệch cỡm không thanh nhã đâu. Cách ăn vận của ngài, quả làm cho chúng tôi phục về lạ mắt và bực về thiếu vẻ sang.
Khi tôi bước đến trước mặt vua, tôi chào theo lễ và chìa tay tới trước, đức vua cũng nghiêng mình thi lễ và vói nắm tay tôi, rồi cả hai, không thốt lời nào, đồng bước tới trước ngai, đặt trên một bệ cao vài nấc (vài ba nấc), ngài đứng lại trước ngai, còn tôi thì đứng trước mặt ngài, chung quanh là các quan phụ chánh, các quan triều thần và nội thị hầu hạ, bọn nội thị thảy đều quì gối, kẻ mang gươm lỉnh, kẻ cầm quạt hầu thật lớn bằng lông chim kết lại, kẻ khác nữa bưng hộp vàng hộp bạc và đều trông vua ra dấu lịnh để thi hành. Lễ quan dâng vua một tờ giấy vàng có viết chữ Hán, vua cầm đọc giọng y như hát, giọng nầy tôi đã từng nghe lúc ở Nam kỳ. Độ vài phút sau, có một thông dịch viên đọc lại tờ phiên dịch sẵn bản của vua đã đọc. Thiết tưởng các người đã đoán trước đó là những lời gì, chung qui toàn là lời chúc mừng riêng, cùng với lời quả quyết mối nhiệt tâm đối với người bạn bảo hộ. Và lời tôi phúc đáp, cũng có thể định trước được, tôi đã đáp từ đức vua bằng lời trông không nhưng hết sức tương thân tương ái, và tôi cam đoan cả hai bài chúc từ nầy không làm chấn động nền hòa bình của thế giới chút nào đâu. Đến đây là chấm dứt buổi lễ tiếp kiến sơ bộ nầy. Đức vua bước xuống ngai, và mời tôi sang qua phòng tư mà chỉ có quan khâm sứ và tùy giá quan của tôi được theo. Bày thết rượu champagne và trà ngự. Lại cũng chúc nước Pháp, nước Nam, chúc sự thịnh vượng cho hai xứ, chúc giám quốc Pháp, chúc vua, chúc hoàng tộc … Buổi đàm đạo bắt đầu, có thông ngôn dịch lại. Đức vua rất ham nghe việc xảy ra bên Âu, việc đời công cũng như tư của Pháp. Mười lăm phút sau, vua đưa chúng tôi trở lại điện ngự, nghi lễ giã từ y như buổi đến.
Cảm giác đầu tiên buổi tôi tiếp xúc với đức Thành Thái nầy là cảm giác tốt.
Ông vua rất trẻ nầy có dáng thông minh, có bộ ngó ngay thật và lối ngài bắt tay quả là nông nhiệt chơn thành. Có thể nào tin vào cặp mắt ngó và lối bắt tay của một người mà suy đoán về tánh tình người đó hay chăng ? Và khi nào người đối diện biết ngó ngay, biết siết tay mạnh và chơn thật, có thể người đối diện ấy là người khá. Nội cái cách vua Thành Thái ngó ngay mặt tôi và bắt tây tôi nồng hậu đã chứng tỏ đức vua không phải là người giảo quyệt (fourbe) và có dạ hung tàn ác xấu trong bản tâm ngài đâu (Forncièrement méchant). Cố nhiên tôi có thiện cảm ngay đối với ngài, tôi đặt hết lòng tin và mối cảm tình tốt vào ngài, và tức nhiên, sự nầy vẫn trái hẳn với bao nhiêu lời đồn đãi xấu về ngài mà tôi đã nghe được cho đến hôm nay.
Tôi vừa về đến tòa khâm sứ thì súng đồng nổ rền báo tin vua sẽ đến đáp lễ. Lại lính bồng súng chào, kèn nhà binh thổi bài ra trận. Đức vua đến viếng tôi, ngài phen nầy ngự kiệu, quan, lính, kẻ hầu người hạ, kiệu phất lụa màu vàng, trước kiệu có người cầm gươm bạc. Và cũng có đoàn nhạc ngự chót chét làm sao tranh lớn tiếng bằng kèn sơn-đá bằng đồng.
Đức Thành Thái phen nầy không mặc bộ ngự bào nặng nề buổi sáng, không đội mão giống nón các, không đi giày bó chơn cao gót nhung dạ nữa. Y phục ngài dùng phen nầy, vừa đơn giản, gọn gàng, rất là khéo lựa và rất hạp nhãn và thanh lịch. Phen nầy ngài ăn vận không khác lối ăn vận ngày thường của người An Nam dân chợ, vẫn cái áo dài lụa, cái quần rộng, hai ống phất phơ, chơn đi dép da, đầu bịt khăn xếp, nhưng chính màu sắc và lối mịm màng và lối cắt may mới làm tôn lối ăn mặc của ngài. Áo dài của ngài, không thêu thùa, duy đó là hoàng bào, chiếc áo màu vàng mà nơi nước An Nam chỉ có vua mới được mặc. Quần bằng lụa màu hồng đào (rouge cerise) chỉ thấy dưới áo, ló ra độ 25cm hay 30cm và ló ra hai bên vạt áo xẻ hai bên nách cho dễ đi đứng, và trên đầu ngài chít khăn nhiễu vàng rất thanh. Hoàn toàn thanh lịch, hoàn toàn hợp thời trang, và càng tôn vẻ quí phái sang trọng của một ông vua vừa trẻ vừa dóng dảy cao, mình dây, đi đứng khoan thai gọn gàng.
Những lời trao đổi trong buổi tiếp xúc nầy có phần tự do hơn và thân mật hơn kỳ tiếp xúc buổi sáng. Có quan khâm sứ tham gia vào buổi đàm đạo nầy; quan khâm có nhắc lại những náo loạn do đức ngài đã diễn ra những hôm trước, đức ngài nghe và vẫn tươi cười hồn nhiên, không làm bộ tịch cũng không hề ngượng nghịu.”
Đoạn trên là lược dịch từ trang 182 đến trang 187 của quyển L’Indochine francaise (Souvenirs) của ông Paul Doumer. Tôi xin bỏ bớt một đoạn từ trang 187-188 nói về lễ tế Nam Giao, và trở lại dịch tiếp từ trang 189 :
“Buổi chiều diễn tập cách hành lễ để mai nầy vua đứng tế chánh thức, tôi (Doumer) có dịp tiếp xúc tay đôi với vua và nhờ dịp nầy, tôi đàm đạo dài dòng và trên trăm chuyện khác nhau với ngài, và nhờ đó mà tôi thấu hiểu cặn kẽ ông vua trẻ nầy, và biết được bề trong của ngài, tánh tình, sức thông minh, giá trị đúng và những gì có thể trông cậy vào ngài được. Trong suốt năm năm tôi còn ở lại trên đất nầy, tôi đã thấy tận mắt sự hành động bình thường và hằng ngày của ngài, ngài đã nhiều phen cởi mở và bày cạn nỗi lòng với tôi những lúc ấy, nên sự xét đoán của tôi về ngài Thành Thái lại ngày càng quả quyết thêm lên.
Vua Thành Thái không điên, không bực nào điên cuồng, khát máu như lời thiên hạ thường đồn đãi đâu. Trái lại, ngài có một trí thông minh rất bén nhạy, một lý luận ngay thẳng, một chủ quyền lớn về mình (une grande possession de soi).
Nhưng cái lối giảng dạy, un đúc nhơn tài làm ra con người “vua” của ông hoàng đế non trẻ nầy là một, hai nữa là cái độc quyền mà ngài được sử dụng tuyệt đối trong cung vi không một ai dòm ngó được và chính các thái hậu và quan phụ chánh cũng thỉnh thoảng mới được can khuyên đôi khi, những sự ấy đã làm cho những tật xấu, đối với một người khác thì không ai dung thứ, mà riêng đối với ngài, càng ngày càng lộng càng tăng. Tánh ngài lại độc tài, hay thay đổi bất thường, ngông và không định đoạt, dị thường. Ngài bị khóa nhốt trong cung viện u tối lạnh lẽo, và độc hại hơn cái “tử cấm thành” ấy lại là lề phép chật hẹp đã bó buộc các vua chúa không biết từ thuở nào trên đất An Nam nầy, mỗi khi vi phạm là phải chết bằng gươm bén hay thuốc độc, những cái ấy đã làm cho ông vua non trẻ nầy phải lồng lộng cuồng trí thèm tự do, thèm những gì mà sự hiện diện của người Âu Tây làm gương đốc lối, thấy càng thèm thuồng thêm. Quả thật là khó trói ép gò bó trong lề lối chật hẹp của phép tắc, ông vua trẻ nầy, khi ông thấy bọn Tây ở đây đã thoát ly từ lâu, và cớ sao bắt ông tuân theo làm chi, những tục lệ, những lề lối ngàn năm cũ rích, đầu đề của sự chế nhạo của người Tây ấy? Do đó mà đã xảy ra những việc ông đã làm, mà người ta gán cho nào là tội sát nhơn, tội lỡ lời xúc phạm, rồi triều đình phúc trình lên trên, để khiến khâm sứ phải can thiệp xen vào. Lại phải nói trong tuổi mà người An Nam chưa có lập đôi bạn, thì vua Thành Thái đã có một cung nội khá đông, nào vợ chánh, tình nhơn, tỳ tất, nội đó đủ làm cho vua trẻ khó giữ vững óc trí sáng suốt và tâm não bình thường rồi. Trong những thì giờ dài dặc vua trẻ bị nhốt giữa cảnh nhàn vi bất thiện, tất nhiên vua có những cử chỉ bạo tàn, đánh đập ác nghiệt, người nào nghe, lại thêm thắt cho nhộn thêm lên. Ngoài ra những sách đọc, chuyện kể, nói về lối sống, lối chơi bời của các vua lang sa đời trước nào phải là gương tốt và càng xúi giục cho trí óc vua, đã không vững lấy đó noi theo, và bắt chước làm cho hơn thêm lên, mới là tai hại và báo đời.
Theo chỗ tôi thấy, quả nay không thể trói buộc vị ấu vương nầy trong những lễ nghi gò bó, và phải cư xử không khác một hình nộm như vầy. Những lễ nghi kia, dầu thiêng liêng, thần thánh bực nào, lẽ đáng nay cũng phải tùy nghi sử đổi cho hợp thời, phải canh tân lại chớ? Nếu dùng và trông cậy vào uy tín các quan phụ chánh tìm một giải hóa pháp (modus vivendi) cho ấu vương và triều đình thông hiểu nhau hơn, không chắc gì nhờ vậy mà ấu vương Thành Thái làm dứt được những tin đồn kia, nhưng ít nữa việc ấy cũng là một việc phải thi hành cấp bách lúc nầy.
Ấy là nhờ trong đêm tập dượt để mai nầy diễn hành đúng nghi lễ cuộc tế Nam Giao nầy và nhờ trọn đêm ấy tôi có dịp tiếp xúc lâu với vị ấu quân nầy, nên tôi đã thừa dịp tiện lời đó mà dẫn giải cho vua ấu thơ nầy rõ là từ tiên đế Tự Đức băng, lễ Nam Giao không được cử hành, và chỉ từ năm 1892 dĩ chí năm 1894, nhờ thời cuộc đã trở lại bình thường nên ấu vương đã tế Nam Giao được hai lần như vầy.”
Tôi đã trót nhắc lại trong một tập tiếu đàm, đoạn sử có thật và trích trong hồi ký của ông Toàn quyền Đô Mỹ (Doumer), ông quả là vị thầy dạy vừa sáng suốt vừa có đủ uy tín để dẫn dắt chỉ bảo ông vua trẻ, tâm tánh bất thường là đức Thành Thái. Tiếc thay ông không ở được lâu để làm tròn nhiệm vụ đẹp đẽ nầy, sứ mạng của ông dứt quá sớm mà thiết nghĩ làm sao triều đình Huế ưng để cho vua nghe mãi lời ông, vốn xem như kẻ thù? Đà tiến của lịch sử vả lại cũng không cho có như vậy. Năm 1902, Paul Doumer bị rút về Pháp, lãnh chức thượng nghị sĩ rồi lên làm tổng thống nước Pháp cho đến năm 1931, ông bị ám sát bởi Gorguloff, bác sĩ gốc Nga khi tuổi ông vừa 75 và hiến bốn người con trai chết cho nước. Gorguloff lên đoạn đầu đài ngày 14-9-1932.
Vương Hồng Sển, viết ngày 26.6.1983




Thảo luận
Không có bình luận