//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Giáo Dục, Mạo hiểm, Tuổi trẻ, Vang Bóng Một Thời

Chàng hải âu kỳ diệu (2) * Richard Bach

Nguyễn Trọng Kỳ dịch

(Tiếp theo kỳ trước)

Rồi một ngày kia, Jonathan Livingston đứng một mình trên bờ bể, nhắm chặt đôi mắt lại, tập trung tư tưởng, và trong một loáng, bỗng hiểu ra tất cả những gì Cụ Chiang đã dạy bảo chàng. “Thôi, đúng rồi! Mình là một con Hải âu hoàn mỹ, một con Hải âu không bị chi phối bởi giới hạn nữa!” Chàng cảm thấy một sự vui mừng ngây ngất.

“Giỏi lắm!” Cụ Chiang thốt lên và giọng nói của Cụ như lời reo chiến thắng.

Jonathan mở choàng mắt ra. Chàng đang đứng bên cạnh Cụ Chiang trên một bờ bể hoàn toàn xa lạ – những hàng cây mọc đến tận bờ nước, đôi mặt trời vàng rực đang quay trên cao.

“Cuối cùng thì cháu cũng đã quán triệt được ý của Lão,” Cụ Chiang nói, “nhưng cháu cần phải tập thêm về sự điều khiển cảm nghĩ của mình nữa…”

Jonathan kinh ngạc. “Chúng ta đang ở đâu đây?”

Không mảy may lưu ý đến thế giới kỳ lạ bên ngoài, Cụ Chiang không trả lời thẳng câu hỏi của đứa học trò nhỏ. “Hình như chúng ta đang ở trên một hành tinh nào đó, với bầu trời xanh với hai vì sao, thay thế cho Mặt Trời.”

Đột nhiên Jonathan phá tan sự im lặng bằng một tiếng kêu sướng thỏa, tiếng kêu đầu tiên từ khi chàng rời Địa Cầu. “Mình đã Thành Công!”

“Lẽ dĩ nhiên là cháu đã thành công.” Cụ Chiang nói. “Cháu sẽ luôn thành công khi mà cháu biết cháu sẽ phải làm những gì. Bây giờ đến lúc cháu phải tập cách điều khiển…”

Khi hai thầy trò trở về, đêm đã xuống. Các con Hải âu khác nhìn Jonathan Livingston với chút ít hoang mang trong những cặp mắt vàng, vì chúng đã thấy Jonathan biến mất từ chỗ chàng đang đứng trong một thời gian đã quá lâu.

Jonathan Livingston nghe những con Hải âu khác chúc tụng, khen tặng chàng trong khoảng thời gian ít hơn một phút. “Tôi là kẻ mới đến! Tôi chỉ mới bắt đầu học tập! Và tôi biết bao nhiêu điều phải học hỏi ở anh em nữa!”

“Jonathan Livingston ạ, tôi thì tôi không tin như thế,” đứng bên cạnh chàng, Hải âu Sullivan bắt đầu nói. “Anh là kẻ ít sợ học nhất trong số Hải âu mà tôi biết được từ mười ngàn năm nay.” Cả đàn im lặng, và Jonathan cảm thấy vô cùng lúng túng.

“Chúng ta có thể bắt đầu học cách vượt thời gian nếu cháu muốn,” Cụ Chiang nói. “Đến khi nào cháu có thể bay trong quá khứ và trong tương lai. Và khi đó, thì cháu đã sẵn sàng để bắt đầu điều khó khăn nhất, mạnh mẽ nhất, và thích thú nhất. Cháu sẽ sẵn sàng để bắt đầu bay lên cao, và hiểu được ý nghĩa của lòng vị tha, và của tình thương.”

Một tháng đã qua, hay ít nhất người ta cũng có cảm tưởng như đó là một tháng, và Jonathan Livingston đã học với một mức độ khủng khiếp. Thường thường, chàng vẫn học một cách nhanh chóng, nhưng bây giờ, khi đã trở thành môn sinh đặc biệt của chính Cụ Trưởng Đàn chàng lại càng lãnh hội nhanh chóng hơn gấp bội.

Nhưng rồi ngày mà Cụ Chiang phải ra đi cũng đến. Cụ đang nói chuyện một cách bình thản với tất cả Đàn, khuyên nhủ họ đừng bao giờ ngừng học hỏi, ngừng tập dượt, ngừng tìm hiểu thêm về nguyên lý hoàn toàn vô hình của tất cả đời sống. Rồi trong khi Cụ đang nói, bộ lông của cụ trở nên càng lúc càng sáng chói hơn, và cuối cùng, thì sáng chói đến độ không con Hải âu nào còn có thể nhìn thẳng vào Cụ được nữa.

Cụ nói. “Jonathan Livingston,” và đó là những lời nói cuối cùng của Cụ. “Hãy tiếp tục học hỏi về tình thương.”

Khi mà các con Hải âu của Đàn có thể thấy lại được, thì Cụ Chiang đã không còn nữa. Ngày tháng cứ qua dần, và đôi lúc Jonathan lại nghĩ đến thế giới mà chàng đã rời bỏ để đến đây. Nếu khi trước, chàng hiểu biết được chỉ một phần mười, chỉ một phần trăm thôi, thì với sự hiểu biết của chàng bây giờ, đời sống sẽ có biết bao nhiêu là ý nghĩa! Chàng đứng trên bãi cát, để tự hỏi không biết hiện nay, trong cái thế giới đó, có một con Hải âu nào đang phấn đấu để vượt bỏ các giới hạn không, để nhận thức được ý nghĩa của sự bay bổng khác khác hơn là một phương tiện di chuyển nhằm đi kiếm từng mẩu bánh mì trên chiếc thuyền lênh đênh ngoài biển. Có thể cũng có con bị loại ra khỏi Đàn, vì đã dám nói lên sự thật trước mặt Hội Đồng Đàn. Và càng thực tập nhiều chừng nào về lòng vị tha, càng học hỏi kỹ chừng nào về bản chất của thương yêu, Jonathan càng muốn trở lại Địa Cầu. Vì, dù cho có một dĩ vãng quá ư cô độc đi nữa, Jonathan vẫn là một sinh vật được sinh ra để trở thành một huấn luyện viên, và phương thức duy nhất để chứng minh được lòng thương yêu, vẫn là cách mang một phần sự thật nào mà nó đã thấy, đến cho một con Hải âu đang mong ước được chính mắt thấy sự thật.

Sullivan bây giờ đã trở thành môn đệ của môn học “Bay Nhanh Như Ý Nghĩ”, trong khi vẫn giúp các bạn khác học tập, có vẻ hoài nghi.

“Jonathan Livingston, anh đã từng bị loại ra khỏi Đàn một lần rồi. Tại sao anh lại có thể tin được là còn có những con Hải âu trong thế giới cũ của anh sẽ nghe theo lời anh? Anh đã biết câu ngạn ngữ rất đúng: Con Hải âu nào thấy xa nhất sẽ bay cao nhất. Những con Hải âu, bạn đồng hành cũ của anh đang đứng trên mặt đất, cãi nhau chí chóe, và đánh nhau. Họ cách thiên đường đến hàng vạn dặm, và anh nói là anh muốn chỉ cho họ thấy thiên đường từ chỗ mà họ đang ở hiện nay! Jonathan ơi, chưa chắc họ đã nhìn thấy hai đầu cánh của họ nữa đâu! Hãy ở lại đây đi. Giúp đỡ các con Hải âu mới những con Hải âu có trình độ khá cao để có thể thấy những gì anh chỉ bảo chúng.” Sullivan nghỉ một chút, rồi lại tiếp tục. “Nếu Cụ Chiang cũng trở về thế giới cũ của Cụ, thì giờ này anh sẽ ra sao?”

Điểm sau này là điểm quyết định, và Sullivan hoàn toàn có lý. Con Hải âu nào thấy xa nhất sẽ bay cao nhất.

Jonathan Livingston ở lại và dạy dỗ các con Hải âu mới đến, chúng đều thông minh, và học hỏi một cách nhanh chóng. Nhưng những ý nghĩ ban đầu lại trở về trong đầu chàng, và chàng không thể không nghĩ đến là có thể có một hoặc hai con Hải âu dưới trần thế cũng có đủ khá năng để học hỏi như vậy. Giờ đây, chàng sẽ như thế nào, nếu Cụ Chiang đến với chàng ngay lúc chàng bị loại ra khỏi Đàn!

“Sullivan ơi, tôi phải trở lại đó,” cuối cùng chàng quyết định. “Các học viên của anh khá lắm. Họ có thể giúp anh trong việc huấn luyện các chú Hải âu mới tới.”

Sullivan thở dài, nhưng không cãi lại. “Tôi nghĩ tôi sẽ nhớ nhiều tới anh đó, Jonathan!” Đó là tất cả những gì nó nói.

“Kìa, Sullivan, xấu hổ quá đi thôi!” Jonathan nói với giọng trách móc, “đừng có điên như vậy! Hàng ngày chúng ta đã cố thực tập những gì? Nếu tình bạn của chúng ta tuỳ thuộc vào những yếu tố như không gian và thời gian, thì một ngày kia, khi chúng ta khắc phục được không gian – thời gian, tự nhiên chúng ta sẽ huỷ hoại tình anh em giữa chúng ta hay sao? Nhưng cứ khắc phục thời gian đi, và tất cả những gì ta còn để lại sẽ là Nơi đây. Khắc phục thời gian đi, và tất cả những gì chúng ta còn để lại sẽ là Bây giờ. Giữa Nơi đây và Bây giờ, anh không nghĩ chúng ta sẽ còn gặp lại một hai lần nữa hay sao?”

Hải âu Sullivan phì cười mặc dù chàng không muốn cười. “Anh là một con Hải âu điên,” chàng nói một cách hiền hoà. “Nếu có một kẻ có thể chỉ cho một kẻ khác trên Địa Cầu nhìn xa đến một ngàn dặm, thì kẻ đó sẽ là Hải âu Jonathan Livingston.” Và chàng nhìn xuống bãi cát, “Tạm biệt Hải âu Jonathan Livingston, bạn tôi.”

“Tạm biệt Sullivan, chúng ta sẽ gặp lại nhau.” Nói tới đó, trong đầu Jonathan nghĩ đến Đàn Hải âu đông đúc trên một bờ bể của thời xa xưa, và chàng biết một cách dễ dàng, là chàng không phải bằng xương, bằng thịt, mà là một ý nghĩa toàn mỹ của tự do và bay bổng, không bị giới hạn bởi bất cứ điều gì.

Hải âu Fletcher hãy còn trẻ, nhưng chú đã biết rằng không có con Hải âu nào bị dằn vặt, hoặc đối xử một cách bất công, bởi bất cứ một Đàn nào, như chú.

“Mình không cần biết họ đã nói những gì.” Chú nghĩ một cách hãnh diện và bỗng trở nên minh mẫn hơn, trong khi đang bay về những ghềnh đá xa xăm. “Bay còn có nhiều ý nghĩa hơn là vỗ đôi cánh để di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác chứ! Một con… một con muỗi cũng có thể làm được việc đó! Chỉ bay lăn một vòng chung quanh Cụ Trưởng Đàn, để vui đùa tí chút thôi, thế là bị loại khỏi Đàn! Bộ họ đui mù cả rồi hay sao? Tại sao họ không thể thấy được? Tại sao họ không thể nghĩ đến sự vinh quang mà chúng ta sẽ gặt hái được một khi chúng ta học bay một cách đứng đắn?”

“Mình không cần biết họ đã nghĩ những gì. Mình sẽ cho họ biết thế nào là bay! Mình sẽ là một kẻ sống ngoài vòng Luật Lệ, nếu họ muốn cho mình như vậy. Và mình sẽ làm cho họ phải hối tiếc…”

Tiếng nói vang lên trong đầu chú, và dù tiếng nói thật nhỏ nhẹ, cũng đã gây nhạc nhiên cho chú không ít, làm chú giật mình và rơi nhẹ trong không khí.

“Đừng quá cứng rắn với họ, Hải âu Fletcher. Khi họ loại anh khỏi Đàn, các con Hải âu khác chỉ tự hại lấy họ mà thôi, và một ngày kia, họ sẽ biết rõ điều này, một ngày kia, họ sẽ thấy rõ những gì anh đang thấy. Hãy tha thứ cho họ và phải giúp họ hiểu.”

Cách đầu cánh phải của Fletcher hai phân, một con Hải âu rạng rỡ nhất thế giới đang bay, lướt một cách không chút cố gắng bên cạnh chú, không đụng đậy lấy một chiếc lông, ở vận tốc gần như là tối đa của Fletcher.

Trong một thoáng, chú Hải âu trẻ tuổi cảm thấy hoang mang.

“Việc gì đang xảy ra đây? Mình điên rồi chăng? Mình đã chết rồi chăng? Việc gì thế này?”

Giọng nói trầm ấm và bình thản lại xoáy vào trong ý nghĩ của chú, đòi hỏi chú phải trả lời. “Hải âu Fletcher, anh có muốn bay không?”

“Thưa có, tôi muốn bay!”

“Hải âu Fletcher, anh có muốn bay nhiều đến độ anh sẽ tha thứ cho Đàn, và sẽ học hỏi, và sẽ trở lại với họ một ngày kia, và làm việc để giúp cho họ hiểu không?”

Không một ai có thể nói dối với một cao thủ diễm ảo và tài ba đến như vậy, dù Hải âu Fletcher có hãnh diện, hoặc có bị thương tổn đến thế nào đi nữa.

“Thưa có,” Fletcher trả lời một cách nhỏ nhẹ.

“Như vậy,” sinh vật rạng rỡ kia nói với với chàng bằng một giọng hết sức trìu mến, “chúng ta nên bắt đầu với thế bay Bình Phi đi, Fletcher.”

Jonathan lượn chầm chậm, theo hình vòng tròn trên ghềnh đá xa xăm, để theo dõi. Chú Hải âu Fletcher trẻ tuổi và nóng nảy này tỏ ra gần như là một học viên toàn mỹ của nghề bay. Chú mạnh khoẻ và nhẹ nhàng, nhưng điều quan trọng tối thượng là chú có một ý chí sắt đá trong việc học bay.

Kìa chú đã đến rồi, một hình thể màu xám đang thoát ra khỏi đường lao thẳng đứng xuống, bay với vận tốc một trăm năm mươi dặm một giờ vèo qua mặt sư phụ của chú. Thình lình chú đổi chiều bay để cố thử lại một lần nữa thế bay lăn thẳng đứng chậm, theo một đa giác mười sáu cạnh, và chú đếm to mỗi cạnh của đa giác.

“… tám… chín… mười… ông Jonathan thấy không, tôi mất vận tốc rồi đây này… mười một… Tôi muốn đánh dấu các cạnh thật rõ ràng như ông đã làm… mười hai… nhưng chết rồi, chắc tôi không… mười ba… làm nổi ba cạnh cuối cùng… mà không… mười b… ááááii!”

Bị triệt nâng từ trên cao đã làm cho Fletcher tức tối và giận dữ tới cực độ vì đã thất bại. Chú ngã ngửa ra phía sau, chới với, bị quật vào trong vòng xoáy trong tư thế ngửa bụng lên trời, để cuối cùng cũng thoát ra được, ngất ngư, cách sư phụ của chú ba mươi thước về phía dưới.

“Thưa ông Jonathan, ông chỉ mất thời giờ vô ích với tôi mà thôi! Tôi ngu ngốc quá đỗi! Tôi dốt nát quá chừng! Tôi đã cố thử đi, thử lại, nhưng không bao giờ tôi thành công cả!”

Hải âu Jonathan Livingston nhìn xuống phía chú và gật đầu. “Chắc chắn là không khi nào anh thành công được, khi mà anh bay ngược lên nhanh quá. Fletcher ạ, anh đã mất đến bốn mươi dặm một giờ khi bắt đầu! Anh phải nhẹ nhàng hơn! Chắc chắn nhưng nhẹ nhàng, anh nhớ chưa?”

Jonathan lượn cánh xuống ngang hàng với chú Hải âu trẻ tuổi. “Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau thử xem nào, bay hợp đoàn nhé. Và cố cẩn thận khi bay ngược trở lên. Lúc đầu phải từ từ và nhẹ nhàng.”

Sau ba tháng trời, Jonathan có thêm sáu môn đệ nữa, tất cả đều bị loại ra khỏi Đàn, nhưng đều muốn biết về ý niệm mới: bay chỉ để vui sướng vì được bay mà thôi.

Dù vậy, đối với chúng, việc tập bay để đạt những thành tích mới có vẻ dễ dàng hơn là việc tìm hiểu những lý do thầm kín bên trong.

“Thật ra thì mỗi chúng ta chỉ là một ý nghĩ của Hải âu Tối Thượng mà thôi, một ý nghĩ không giới hạn của tự do,” Jonathan thường nói mỗi đêm, trên bờ bể, “và sự bay chính là một giai đoạn để tiến tới việc bày tỏ bản chất thật của chúng ta. Tất cả những gì có thể giới hạn được chúng ta, chúng ta phải dẹp qua một bên. Vì thế mà tất cả các bài thực tập về vận tốc cao, vận tốc thấp và nhào lộn…”

… và các học trò của chàng sẽ ngủ gật, quá mệt mỏi vì các chuyến bay trong ngày. Chúng thích được bay tập, vì chúng cảm thấy được sự nhanh nhẹn, kích thích trong khi bay, và sự hiếu học càng ngày càng gia tăng sau mỗi bài học, được thoả mãn. Nhưng không một con Hải âu nào, kể cả Fletcher, có thể tưởng tượng được là sự bay bằng ý nghĩ có thề trở nên sự thực như bay bằng lông và gió.

“Tất cả thân hình của các anh, từ đầu cánh này đến đầu cánh kia,” Jonathan lại nói trong những lúc khác, “chỉ là ý nghĩ của các anh mà thôi, trong một hình thể mà các anh có thể thấy được. Cắt dứt được luồng tư tưởng của các anh, và các anh sẽ cắt dứt được sự liên tục của thân thể các anh…”

Nhưng dù có nói đến cách nào đi nữa, điều đó vẫn có vẻ như một câu chuyện giả tưởng, và lũ môn sinh của chàng lại cần ngủ hơn.

Chỉ một tháng sau đó, Jonathan mới nói cho chúng biết là đã đến lúc chúng phải trở lại Đàn.

“Chúng tôi chưa sẵn sàng!” Hải âu Henry Calvin nói. “Chúng tôi sẽ không được tiếp đón đâu! Chúng tôi đã bị loại ra khỏi Đàn rồi! Chúng tôi đâu có thể tự bắt buộc mình phải đến nơi mà chúng tôi không được tiếp đón?”

“Chúng ta tự do đi đến chỗ nào chúng ta thích, và trở thành chính chúng ta,” Jonathan trả lời, và chàng cất mình lên khỏi bãi cát, quẹo sang phía Đông, hướng về lãnh thổ của Đàn nhà.

Các Hải âu môn sinh bỗng lo lắng, vì Luật lệ của Đàn lo cho phép những con chim đã bị loại khỏi Đàn trở lại, và Luật lệ này chưa hề bị vi phạm trong suốt mười ngàn năm nay. Luật lệ bảo phải ở lại, Jonathan bảo phải đi; và giờ đây, chàng đã bay được hàng dặm ngoài biển cả rồi. Nếu chúng còn chần chờ, Jonathan Livingston sẽ phải chạm mặt một mình với Đàn không thiện cảm.

“Chúng mình đâu có bị bắt buộc theo đúng Luật, nếu mình không thuộc trong Đàn nữa, phải không các anh?” Fletcher nói, đúng ra là cho riêng chú. “Ngoài ra, nếu có phải đánh nhau, chúng ta có thể giúp sư phụ một cách hữu hiệu hơn, nếu chúng ta có mặt ở đó.”

Và như thế, họ từ hướng Tây bay về, trong buổi sáng ngày hôm ấy, tám con Hải âu bay tập đoàn theo hai đội hình thoi, các đầu cánh gần như chồng lên nhau. Chúng bay qua bãi bể nơi mà Đàn họp Hội Đồng, với vận tốc một trăm ba mươi lăm dặm một giờ. Jonathan Livingston dẫn đầu, Fletcher nhẹ nhàng bên cánh phải, Vân Khôi cố gắng một cách nghịch ngợm bên phía trái. Rồi đột nhiên cà đội hình bay lăn tròn chầm chậm về phía phải, như một con chim duy nhất… bình phi… đến… bay trên lưng… đến… bình phi, gió đập phần phật vào người chúng.

Tiếng kêu chí chóe, the thé thường nhật của Đàn đột nhiên bị cắt ngang, làm như đội hình trên trời kia là một con dao khổng lồ vậy, và tám ngàn con mắt Hải âu ngó lên, không một cái chớp mắt. Rồi từng con một, tám con Hải âu bắt đầu bay vút lên cao, để thực hiện một vòng thẳng đứng, cho đến khi xuống sát mặt cát, mới thả đôi chân ra, đứng xuống mặt cát trong tư thế đáp đứng. Rồi, như sự việc đã xảy ra mọi ngày, Hải âu Jonathan Livingston bắt đầu phê bình từng đồ đệ một về chuyến bay.

“Để bắt đầu,” chàng nói trong cái mỉm cười, “các anh hơi chậm khi hợp đoàn…”

Mọi việc xảy ra nhanh như ánh chớp trong Đàn Hải âu. Các con chim kia đã bị loại khỏi Đàn rồi kia mà! Và chúng nó lại trở về! Điều đó… điều đó không thể xảy ra được! Những dự đoán về đánh nhau của Fletcher tan biến trong sự hỗn loạn của Đàn.

“Rồi, đồng ý là họ đã bị loại ra khỏi Đàn,” một vài con chim trẻ nói lên, “nhưng mà này, các anh có thấy không, không biết họ học bay ở đâu thế nhỉ?”

Phải đến gần một giờ đồng hồ, lời của vị Trưởng Đàn mới tới tai tất cà các Hải âu trong Đàn: “Hãy lờ chúng nó đi. Con chim nào nói chuyện với một con chim đã bị loại khỏi Đàn, tự động sẽ bị loại ra khỏi Đàn. Con chim nào ngó đến con chim bị loại Đàn, sẽ xem như vi phạm Luật Lệ của Đàn.”

Những cái lưng với mớ lông xám bắt đầu quay về phía Jonathan Livingston từ lúc đó, nhưng hình như chàng không để ý tới. Chàng bắt đầu cho các đồ đệ bay tập ngay trên bãi bể thường dùng để họp Hội Đồng, và lần đầu tiên, chàng bắt đầu thúc đẩy các chú học trò nhỏ đến giới hạn của khả năng chúng.

“Hải âu Martin!” chàng hét lên trong không trung. “Anh nói là anh biết bay với vận tốc thật nhỏ. Nếu anh không chứng minh được thì kể như anh chưa biết gì cả! BAY ĐI!”

Như vậy là Hải âu Martin William, ngạc nhiên vì bị thầy la mắng, tự gây ngạc nhiên cho chú, và trở thành một phù thuỷ của môn bay vận tốc thấp. Trong một thoáng gió nhẹ, chú đã có thể cong các chiếc lông lên, để cất cánh từ bãi cát lên tận mây và trở xuống, mà không cần vỗ cánh lấy một lần.

Cũng vậy, Hải âu Charles-Roland nương theo cơn gió núi Trường Sơn, lên đến hai mươi bốn ngàn bộ, để rồi khi xuống đất phải lấy làm ngạc nhiên một cách thích thú, nhất định sẽ bay lên cao hơn nữa, ngày hôm sau.

Hải âu Fletcher yêu nghề bay nhào lộn hơn tất cả các con Hải âu khác đã thực hiện thế bay lăn thẳng đứng chậm, theo hình đa giác mười sáu cạnh, để rồi ngay ngày hôm sau tự phá kỷ lục của mình với thế bay khó hơn và rắc rối hơn. Đôi cánh của chú phản chiếu ánh mặt trời xuống bãi cát, nơi mà hơn một cặp mắt đã lén nhìn lên.

Mỗi giờ, Jonathan Livingston lại đến bên cạnh mỗi đồ đệ của mình, để chỉ điểm, đề nghị, thúc đẩy và dẫn dắt. Chàng bay với các đồ đệ trong đêm, xuyên qua mây mù và giông bão, để được bay, trong khi Đàn Hải âu co ro một cách khổ sở trên bờ cát.

Khi đã bay xong, các môn sinh nghỉ mệt trên bãi cát và trong lúc đó, chúng nghe Jonathan nói một cách cẩn thận hơn. Chàng có nhiều ý nghĩ điên rồ mà bọn học trò không thể hiểu nổi, nhưng chàng cũng có nhiều ý nghĩ hay ho mà chúng lãnh hội được.

Dần dà, trong đêm tối, một vòng tròn khác đã hình thành, bao quanh vòng tròn lập bởi các môn đệ của Jonathan Livingston – vòng tròn của những con Hải âu hiếu kỳ lắng nghe trong đêm tối, suốt hàng giờ đồng hồ liền, không thích nhìn thấy những con Hải âu khác, và cũng không muốn những con Hải âu khác nhìn thấy chúng, và tản mác đi trước khi trời hừng sáng.

Một tháng sau ngày trở lại Đàn, mới có một con Hải âu đầu tiên của Đàn vượt vòng tròn để xin học bay. Khi xin học bay, Hải âu Terrence Lowell đã là con chim có tội, bị gán cho nhãn hiệu bị loại khỏi Đàn, và trở thành đứa học trò thứ tám của Jonathan.

Đêm sau đó, Hải âu Kirk Maynard rời Đàn để đến với Jonathan Livingston, nó lạch bạch trên cát, kéo lê cánh trái, để rồi khuỵu xuống dưới chàng. “Hãy giúp tôi,” nó nói một cách bình tĩnh, với giọng nói của một kẻ đang hấp hối. “Tôi muốn được bay hơn tất cả mọi sự trên đời…”

“Vậy thì hãy đến đây,” Jonathan nói. “Bay với tôi lên trên cao kia, và chúng ta sẽ bắt đầu.”

“Ông không hiểu. Cánh của tôi. Tôi không thể di chuyển cái cánh của tôi.”

“Hải âu Maynard, anh có tự do để trở thành chính anh, chính bản chất thật của anh, ở đây, và ngay lúc này, và không có cái gì có thể ngăn cản anh được cả. Đó là Luật Lệ của Hải âu Tối Thượng, đó là Luật.”

“Ông bảo rằng tôi bay được ư?”

“Ta nói rằng anh tự do.”

Một cách hết sức giản dị và nhanh chóng, Hải âu Hồ Hải xoè đôi cánh ra, không chút nỗ lực, và bay bổng lên trong không khí của đêm tối. Cả Đàn đều bị đánh thức dậy, vì tiếng thét lớn nhất mà nó có thể thét được từ trên năm trăm bộ cao độ: “Tôi đã bay được! Nghe đây! TÔI ĐÃ BAY ĐƯỢC!”

Đến lúc mặt trời mọc, đã có gần một ngàn con Hải âu đứng vây quanh các chú học trò của Jonathan Livingston, nhìn Hồ Hải bằng cặp mắt lạ lùng. Chúng không cần biết là có ai trông thấy chúng hay không, và chúng có lắng nghe có hiểu những gì mà Jonathan Livingston đang nói.

Chàng nói những điều thật giản dị – như Hải âu bay là một điều đúng, như tự do là bản chất tự nhiên của sinh vật, và những gì ngăn cản sự tự do đó phải được gạt qua một bên, dù cho đó là mê tín, tập tục hay giới hạn dưới mọi hình thức.

“Gạt qua một bên,” một giọng nói trong đám đông cất lên, “dù cho đó là Luật Lệ của Đàn cũng vậy?”

“Chỉ có một Luật Lệ thật sự, đó là luật lệ đưa ta tới tự do,” Jonathan Livingston nói. “Ngoài ra, không còn Luật Lệ nào khác hơn nữa.”

“Làm sao ông có thể mong rằng chúng tôi sẽ bay được như ông bay?” Một giọng nói khác vang lên. “Ông là một con chim đặc biệt, được thiên phú, và thần thánh, trên tất cả mọi loài chim.”

“Hãy nhìn Fletcher, Lowell, Charles-Roland! Họ cũng đặc biệt, thiên phú và thần thánh cả sao? Họ không hơn gì các anh cả, họ không hơn gì tôi cả. Chỉ có một điều khác biệt, khác biệt duy nhất, là họ đã bắt đầu hiểu được thật sự họ là cái gì, và họ bắt đầu tập điều đó.”

Các học trò của Jonathan Livingston, trừ Fletcher, cử động một cách ngượng ngập. Chúng không nhận thức được đó là điều mà chúng đang thực hành.

Đám đông càng ngày càng đông hơn, họ đến để hỏi, chiêm ngưỡng, để phản đối. “Trong Đàn chúng nó nói rằng nếu ông không phải là con của chính Hải âu Tối Thượng,” Fletcher nói với Jonathan Livingston trong một buổi sáng kia, sau khi đã thực tập về vận tốc cao tầng, “thì ông cũng đi trước hàng ngàn năm so với nhưng con Hải âu cùng thế hệ.”

Jonathan thở dài. Đó là cái giá của sự không được đồng bào mình hiểu. Chàng nghĩ vậy. Hoặc họ gọi mình là Quỷ dữ, hoặc là Thần thánh. “Anh nghĩ thế nào, Fletcher? Chúng ta có đi trước thời đại chúng ta không?”

Sự im lặng kéo dài. “Bay bổng đã có từ lâu, để cho ai muốn khám phá nó thì cứ học; điều này không liên quan gì đến thời gian cả. Có thể chúng ta đi trước về lề lối. Chúng ta đi trước cách thức mà đa số Hải âu đang bay.”

“Điều đó nghe được lắm,” Jonathan nói, và lăn vòng để bay ngửa trên lưng trong một lúc. “Điều đó nghe đỡ ngượng hơn là mình đi trước kỷ nguyên của mình.”

Sự kiện sau xảy ra sau đó đúng một tuần. Fletcher đang biểu diễn những yếu tố để bay với vận tốc cao cho một lớp môn sinh mới. Chú vừa bay ngược lên từ đường bay lao thẳng đứng từ cao độ bảy ngàn bộ, như một lằn xẹt xám, cách mặt đất chừng vài phân, thì một con Hải âu trẻ, mới bay lần đầu lượn vào đường bay của chú, để gọi mẹ. Chỉ có một phần mười giây để tránh chú chim non, Hải âu Fletcher lật mạnh về phía trái với vận tốc trên hai trăm dặm một giờ, đập mạnh vào ghềnh đá xanh cứng ngắc.

Đối với chú, ghềnh đá như một cánh cửa vĩ đại và cứng rắn của một thế giới khác. Một sự sợ hãi nổi dậy, và va chạm, rồi tối đen, khi chú đang trôi bềnh bồng trong một bầu trời lạ lùng, thật lạ lùng, quên, nhớ, quên, sợ hãi, buồn phiền và tiếc nuối, tiếc nuối thật nhiều.

Tiếng nói vang lên trong chú như ngày mà chú gặp Hải âu Jonathan Livingston lần đầu.

“Bí quyết, Fletcher, là chúng ta tìm cách khắc phục các giới hạn một cách tuần tự, một cách kiên nhẫn. Chúng ta chỉ thực hành việc bay xuyên qua đá ở mãi đoạn sau chương trình mà thôi.”

“Ông Jonathan Livingston!”

“Còn được người ta biết dưới danh nghĩa Con Trai của Đấng Hải Âu Tối Thượng,” vị sư phụ của Fletcher đáp một cách khô khan.

“Ông đang làm gì đây? Ghềnh đá! Tôi có… tôi đã… chết?”

“Kìa, Fletcher. Hãy suy nghĩ kỹ lại xem. Nếu hiện giờ anh đang nói chuyện với tối, hiển nhiên anh đâu có chết, phải không? Kết quả của những gì anh đã làm là thay đổi mức độ tri thức của anh một cách hơi bất ngờ. Đó là do chính anh đã lựa chọn. Anh có thể ở lại đây, và học hỏi theo mức độ nơi đây – hơi cao hơn mức độ ở nơi anh vừa rời bỏ – hoặc trở lại Đàn để tiếp tục dạy dỗ các con chim trẻ của Đàn. Các Trưởng Đàn đã chờ mong một tai họa nào đó sẽ xảy, nhưng họ đã ngạc nhiên vì anh đã giúp họ một cách quá ư đắc lực.”

“Lẽ dĩ nhiên là tôi muốn trở về với Đàn. Tôi vừa mới bắt đầu dạy lớp học trò mới!”

“Được lắm. Fletcher này, anh có nhớ những gì tôi đã nói về việc hình thể của một sinh vật chỉ là ý nghĩ của nó mà thôi…”

Fletcher lắc đầu và duỗi thẳng đôi cánh ra, và mở mắt ở dưới chân ghềnh đá, giữa cả Đàn Hải âu đang tụ tập xung quanh. Những tiếng kêu chí chóe, the thé vang lên từ đám đông, khi chú bắt đầu cựa quậy.

“Nó sống! Nó đã chết, lại sống dậy!”

“Ông ấy chỉ sờ nó với đầu cánh! Và ông ấy đã hồi sinh cho nó! Ông ấy là con trai của Hải âu Tối Thượng!”

“Không phải! Hắn ta đã từ chối điều đó! Hắn ta chính là Quỷ dữ! Quỷ Dữ! Đến đây để phá hoại Đàn chúng ta!”

Có đến bốn ngàn con Hải âu trong đám đông, đang sợ hãi vì những điều đã xảy ra, và tiếng Quỷ Dữ đã lướt qua đầu óc chúng như luồng gió bão trên mặt Đại Dương. Mắt sáng rực, mỏ sẵn sàng, chúng siết vòng vây lại để tàn phá.

“Fletcher, anh có nghĩ là tốt hơn ta nên rời nơi này chăng?” Jonathan hỏi.

“Chắc chắn là tôi sẽ không phản đối lắm nếu chúng ta có thể…”

Ngay lúc đó, họ đã đứng bên cạnh nhau, cách đó hơn nửa dặm, và những cái mỏ sáng bóng của đám đông đã khép lại trong không khí.

“Tại sao,” Jonathan thắc mắc, “việc khó nhất trên đời lại là thuyết phục một con chim là nó tự do, và nó chỉ cần tự chứng minh lấy, bằng cách chịu khó mất một ít thời giờ để thực tập mà thôi? Tại sao khó như vậy?”

Fletcher hãy còn chưa hết kinh ngạc về sự thay đổi khung cảnh vừa xảy ra. “Ông vừa làm việc gì vậy? Làm sao chúng ta lại có thể đến nơi này?”

“Anh có nói là anh muốn rời xa cái đám Hải âu kia, có phải không?”

“Thưa có! Nhưng ông đã làm bằng cách nào…”

“Như tất cả mọi việc khác vậy, Fletcher ạ. Thực tập.”

Khi trời sáng thì Đàn Hải âu đã quên mọi sự giận dữ vừa qua, nhưng Fletcher thì không. “Ông Jonathan, ông có còn nhớ những gì ông đã nói khi trước, về vấn đề yêu thương Đàn đủ để trở lại Đàn và giúp đỡ họ trong việc học hỏi không?”

“Còn chứ.”

“Tôi không hiểu ông làm thế nào để có thể yêu cái đám đông vừa tìm cách giết ông.”

“Không đâu Fletcher, mình đâu có yêu cái đó! Lẽ dĩ nhiên là mình không thể yêu lòng đố kỵ và sự xấu xa. Anh phải cố sức tập, và nhận thức được con Hải âu thực thụ, khía cạnh tốt trong mỗi con Hải âu, để rồi giúp chúng nhận thức khía cạnh tốt đó, trong chính chúng nó. Đó là những gì tôi muốn nói, khi nói đến yêu thương. Và rất thú vị, nếu anh đã quen với điều đó.”

“Thí dụ như tôi vẫn nhớ đến một con chim trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết, tên là Hải âu Fletcher. Vừa bị loại ra khỏi Đàn, sẵn sàng chiến đấu chống lại Đàn cho đến chết, và bắt đầu bằng cách nuôi dưỡng hận thù đó nơi ghềnh đá xa xăm. Và ngày hôm nay, con chim đó đang có mặt nơi đây, để xây đắp Thiên Đàng thay vì lòng thù hận, và đang hướng dẫn cả Đàn theo chiều hướng đó.”

Fletcher quay mắt lại nhìn vị sư phụ, và trong một thoáng, đôi mắt nó phản ảnh sự sợ hãi. “Tôi, dẫn dắt chúng? Ông muốn nói gì khi bảo tôi sẽ hướng dẫn chúng? Ông là vị chỉ đường soi lối ở đây. Ông không thể rời bỏ nơi này được!”

“Tôi không rời bỏ nơi này được? Anh không nghĩ rằng có thể còn có những Đàn Hải âu khác, cần có những Hải âu Fletcher khác, đang cần đến một kẻ chỉ đường hơn Đàn Hải âu này, để tiến tới vùng ánh sáng hay sao?”

“Ông Jonathan, tôi? Tôi chỉ là một con Hải âu tầm thường, còn ông…”

“… chắc anh định nói tôi là đứa con trai duy nhất của Hải âu Tối Thượng chứ gì?”

Jonathan Livingston thở dài và nhìn xa ra biển cả. “Anh không còn cần đến tôi. Anh chỉ cần tiếp tục tìm hiểu anh thêm nữa, mỗi ngày thêm một ít về con người thực thụ, không bị giới hạn của Hải âu Fletcher. Chính con người đó mới là sư phụ anh. Anh cần phải hiểu nó và anh cần phải thực tập nó.”

Một lúc sau đó, hình thể của Jonathan Livingston chập chờn trên không trung, lóng lánh rồi bắt đầu trở thành trong suốt. “Đừng để cho chúng truyền bá dư luận không tốt vế tôi, hoặc xem tôi như thần thánh. Đồng ý chứ Fletcher? Tôi chỉ là một con Hải âu. Có thể tôi yêu bay…”

“Ông Jonathan Livingston…”

“Fletcher. Đừng tin ở những gì mắt anh đang thấy. Vì tầm mắt lúc nào cũng bị giới hạn. Hãy nhìn với tri thức của anh, tin những gì anh đã biết được, và anh sẽ tìm thấy phương thức để bay.”

Ánh sáng lóng lánh đã tắt hẳn. Hải âu Jonathan Livingston đã tan biến trong không gian.

Một lúc sau đó, Hải âu Fletcher lê đôi cánh lên không trung, để gặp một toán học trò mới, đang khao khát được học bài học đầu tiên.

“Để bắt đầu,” chàng 1 nói một cách trân trọng, “các anh phải hiểu rằng loài Hải âu chỉ là một ý nghĩ vô biên của sự tự do, là một hình ảnh của Hải âu Tối Thượng, và toàn thể thân hình các anh, từ đầu cánh này đến đầu cánh kia, chỉ là ý nghĩ của các anh mà thôi.”

Các chú Hải âu trẻ tuổi, nhìn chàng một cách đầy thắc mắc. Chúng nghĩ đó đâu phải là phương thức để thực hiện một vòng tròn thằng đứng.

Fletcher thở dài, và bắt đầu trở lại. “Hừm… ơ ơ… tốt lắm,” chàng nói và nhìn lũ học trò một cách nghiêm khắc. “Chúng ta hãy bắt đầu bằng môn Bình Phi.” Trong khi nói điều đó, chàng bỗng hiểu ngay tức khắc là Jonathan Livingston cũng không thần thánh gì hơn chính chàng, Fletcher.

“Không có giới hạn sao ông Jonathan?” chàng nghĩ. Như vậy thì thời gian sẽ không còn dài lắm, cho đến khi mà tôi xuất hiện từ đám mây mỏng, để rồi đáp xuống trên bãi cát CỦA ÔNG, và chỉ cho ông một vài bí quyết về bay! Và lúc chàng cố gắng làm ra vẻ trang nghiêm đối với lũ học trỏ, Hải âu Fletcher bỗng thấy chúng nó, đúng như bản chất của chúng, chỉ trong một thoáng thôi, và, hơn cà sự yêu thích, chàng yêu những gì mà chàng thấy. “Không có giới hạn phải không ông Jonathan?” Chàng nghĩ và mỉm cười.

Nguyên tác : Jonathan Livingston Seagull. Tổ Hợp xuất bản 1973

*********

[1] Lời người dịch: đã đến lúc phải gọi Hải âu Fletcher là chàng.

(Nguồn : vietmessenger.com)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục