//
you're reading...
góp nhặt cát đá, Giáo Dục, Mạo hiểm, Truyện Dịch, Tuổi trẻ

Chàng hải âu kỳ diệu * Richard Bach

Nguyễn Trọng Kỳ dịch
Hình ảnh : thân tri sưu tầm

Richard Bach sinh năm 1936, là cháu trai của nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach. Vốn là một tay lái phi cơ chiến đấu và cũng là thợ cơ khí máy bay người Mỹ, nên bầu trời và những chuyến phiêu lưu là niềm cảm hứng vô tận của ông. Với hơn 60 triệu cuốn sách bán ra trên toàn thế giới, ông ghi tên mình cùng Saint-Exupéry như người họa lại thế giới trẻ thơ đặc sắc.

“Cuốn sách tạo phép lạ trong thập niên bảy mươi.” TIME MAGAZINE

“Với cuốn sách này, Richard Bach đã làm được hai việc : cho tôi bay và làm cho tôi trẻ.” RAY BRADBURY

“Cuốn sách này là một công dân mới nhưng vô cùng giá trị trong cỏi thế giới được cai quản bởi Ông hoàng nhỏ của St. Exupéry. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai ghé thăm cái thế giới của chàng hải âu kỳ diệu này đều sẽ quên đường về.” ERNEST K. GANN

Tặng những hải âu thực thụ đang sống giữa chúng ta

Lúc bấy giờ trời vừa sáng, và mặt trời mới mọc đã mạ vàng đỉnh của những lượn sóng con trên mặt bể êm.

Cách bờ bể chừng một dặm, một chiếc thuyền đánh cá đang rẽ nước, trên trời, một đàn hải âu có đến ngàn con đang bay lượn kêu gào, tranh dành nhau từng miếng mồi điểm tâm nhỏ. Một ngày bận rộn khác lại bắt đầu. Nhưng ở tít xa, xa bờ bể và xa hơn chiếc thuyền đánh cá, một mình, Hải âu Jonathan Livingston đang tập bay. Cách mặt bể hàng trăm thước, trên khoảng trời xanh, chú Hải âu thòng đôi chân xuống, nghểnh mỏ lên cao, và cố chịu đựng sự đau đớn đang vặn xoáy trên đôi cánh mỗi khi bay theo hình vòng tròn. Để bay theo một đường bay vòng tròn với bán kính tối thiểu, chú phải bay thật chậm, và bây giờ, chú phải bay chậm hơn nữa, đến khi gió chỉ còn là thứ tiếng thì thào trên mặt, cho khi cả biển như đứng im bên dưới. Chú nheo mắt lại, trong một tư thế tập trung tư tưởng cao độ, nín thở, cố quẹo gắt thêm một… hai phân nữa… Vừa lúc ấy thì lông cánh của chú tung rối lên, chú bị triệt nâng 1 và rơi xuống.

Như chúng ta đều biết, loài Hải âu không bao giờ rơi, không bao giờ bị triệt nâng. Đối với loài Hải âu, bị triệt nâng khi đang bay là việc đáng xấu hổ, là một điều nhục nhã.

Nhưng Hải âu Jonathan Livingston không xấu hổ, lại xòe đôi cánh trong đường bay vòng tròn, với bán kính thật nhỏ – chậm dần, chậm dần, và triệt nâng thêm một lần nữa – chú không phải là một con chim thông thường.

Đa số Hải âu không học hỏi thêm khi đã biết cách bay – làm thế nào để rời bể đi kiếm ăn, và trở lộn về. Đối với đa số Hải âu, điều quan trọng không phải là bay, mà là ăn. Nhưng với Jonathan Livingston, thì ăn không phải là vấn đế chính, mà vấn đề chính là bay. Hải âu Jonathan Livingston yêu bay bổng hơn tất cả mọi sự khác.

Chú nhận thấy rằng quan niệm này không làm cho các con khác thích thú chú. Chính Bố Mẹ chú cũng lấy làm thất vọng khi thấy Jonathan Livingston tung bay một mình suốt ngày, thực hiện hàng trăm lần cách bay lượn xuống thật thấp, để thí nghiệm, để thu thập kinh nghiệm.

Thí dụ như chú không biết tại sao, nhưng khi chú bay ở độ cao cách mặt nước độ nửa sải cánh của chú, thì chú có thể bay lâu hơn, mà lại ít tốn sức hơn nữa. Chú không đáp trên mặt nước bằng cách thông thường là thả hai bàn chân xuống để làm bắn nước tung toé lên, mà lại đạp bằng cách xếp thật chặt hai chân xuôi theo thân mình, để rồi, khi chạm mặt nước, chỉ lưu lại nơi đây một vệt dài. Khi chú đáp xuống trên bãi cát, trong tư thế hạ cánh với đôi chân xếp xuôi theo bụng, và chỉ thả chân ra, bước trên mặt cách trong khoảng cách cần thiết để hãm đà, khi bụng chú gần sắp chạm cát, thì Bố Mẹ chú quả có phiền lòng và thất vọng.

“Tại sao vậy Jonathan, tại sao vậy?” Mẹ chú hỏi. “Tại sao con không thể làm giống như mọi Hải âu khác trong đàn vậy Jonathan? Tại sao con không bỏ mặc cách bay sải mặt nước đó của lũ bồ nông? Tại sao con không ăn? Con trai của Mẹ, con có biết con chỉ còn lông bọc lấy xương thôi không?”

“Thưa Mẹ, việc chỉ có lông bọc lấy xương không làm cho con quan tâm. Con chỉ muốn biết xem con có thể làm được những gì trên không trung. Chỉ có thế thôi. Con chỉ muốn biết, thế thôi!”

“Jonathan con, nghe đây.” Bố chú nói một cách từ tốn. “Mùa Đông không còn xa lắm. Thuyền bè sẽ ít đi, và loài cá vẫn thường hay sống trên mặt bể cũng phải lặn xuống sâu hơn để trốn lạnh. Nếu con cần phải học, thì hãy học về thức ăn, và cách nào để kiếm ra thức ăn. Bay bổng cũng hay lắm, nhưng con biết không, con không thể ăn được những cái lượn cánh. Con đừng nên quên rằng cứu cánh 2 của sự bay là để có cái ăn”.

Jonathan Livingston gật đầu vâng lời, Và trong suốt mấy ngày sau đó, chú đã cố gắng hết sức xử sự như những con hải âu khác, chú thật tình cố gắng, kêu chí chóe và tranh giành với các bạn cùng đàn quanh bến tàu và các chiếc thuyền đánh cá, bổ nhào xuống nước khi thấy được con cá hay mẩu bánh mì. Nhưng chú không thể tiếp tục được nữa. Điều đó thật là vô bổ, chú nghĩ thế, và bỏ rơi một cách không thương tiếc con cá nhỏ, mà chú phải đánh nhau một cách khó nhọc mới giành được, cho một lão hải âu già đói đang đuổi theo chú. Mình có thể dành thì giờ này để học bay. Mình còn phải học biết bao nhiêu điều nữa!

Và liền sau đó, Hải âu Jonathan Livingston lại bay một mình bay ra xa, thật xa trên mặt bể để học bay, đói nhưng hạnh phúc.

Môn học hôm ấy là vận tốc, và sau suốt một tuần lễ liền thực hành, chú đã học được về vận tốc thành thạo hơn bất cứ con hải âu nào bay nhanh nhất còn đang sống.

Từ một ngàn bộ, đập đôi cánh với tất cả sức lực của mình, và nhào thẳng đứng xuống mặt nước gợn sóng, chú đã học được tại sao từ trước đến nay loài hải âu không bao giờ nhào thẳng xuống như chú đang làm. Chỉ trong vòng sáu giây đồng hồ, chú đã đạt vận tốc bảy mươi dặm một giờ, vận tốc mà đôi cánh của chú bắt đầu mất sự ổn định mỗi khi phải vỗ cánh…

Lần nào cũng như lần nào, hiện tượng trên đều xảy ra như vậy. Dù cho chú có thận trọng đến cách mấy, dù cho chú có vận dụng đến tột cùng khả năng sẵn có đi nữa, chú vẫn không tự kiểm soát được ở các vận tốc cao.

Bay lên đến cao độ một ngàn bộ. Trước hết chú lao hết tốc lực về phía trước, kế đó, vỗ mạnh đôi cánh, lộn về phía trước, trong tư thế lao thẳng đứng xuống phía dưới. Để rồi mỗi lần đều như nhau, cánh trái của chú bị triệt nâng khi vỗ cánh, làm cho chú phải lăn tròn một cách mạnh bạo về phía trái, và khi xòe cánh phải ra để thoát khỏi những vòng lăn tròn thì cả thân hình chú bị hất về phía phải nhanh như bắn, và chú bị cuốn trong cơn lốc xoáy mạnh về bên phải, lôi tuột chú xuống dưới.

Dù cho có cẩn thận đến thế nào, chú vẫn không thoát khỏi hiện tượng đó, khi vỗ cánh. Mười lần cố thử, thì cả mười, khi vừa đạt vận tốc bảy mươi dặm một giờ, thì chú chỉ còn là một bộ lông mất kiểm soát, đang rẽ gió, lao mạnh xuống mặt bể.

Bí quyết, chú đã nghĩ ra, khi bị ướt ngoi ngóp như một con chuột lột, là phải làm thế nào giữ im đôi cánh ở những vận tốc cao, bay đến vận tốc năm mươi dặm một giờ, xong giữ im đôi cánh.

Từ cao độ hai ngàn bộ, chú thử lại một lần nữa, chú lộn nhào thẳng xuống phía dưới, dương mỏ thẳng xuống, xoè thẳng đôi cánh ra một cách thật ổn định, khi vừa đạt vận tốc năm mươi dặm một giờ. Sự kiện này đòi hỏi thật nhiều công sức, nhưng chú đã thành công. Trong vòng mười giây đồng hồ, chú đã lao đi với vận tốc chín mươi dặm một giờ. Jonathan Livingston đã lập được kỷ lục thế giới về tốc độ cho loài hải âu.

Nhưng thành công của chú không được lâu. Giây phút mà chú bắt đầu bay lượn trở lên, giây phút mà chú bắt đầu thay đổi góc độ của đôi cánh, chú lại bị đu vào cái nguy cơ của sự mất kiểm soát, và ở vận tốc chín mươi dặm một giờ, chú có cảm tưởng đang chạm phải một thành thuốc nổ. Hải âu Jonathan Livingston có cảm tưởng như bị nổ tung trên không trung, và rơi xuống mặt bể cứng như gạch đá.

Khi chú tỉnh dậy, trời đã tối lâu rồi, và chú nổi bồng bềnh trên mặt bể chan hòa ánh trăng. Đôi cánh chú rách bươm và nặng trĩu như hai thỏi chì, nhưng sức nặng của thất bại còn đè nặng lên mình chú hơn nữa. chú mong rằng sức nặng đó sẽ đủ lôi chú chầm chậm xuống đáy bể, để chấm dứt tất cả mọi sự.

Và trong khi chú chìm từ từ vào lòng bể, một tiếng nói rỗng tuếch, kỳ dị bỗng như nổi dậy trong lòng chú.

Không còn cách nào khác. Mình chỉ là một con Hải âu. Mình bị giới hạn bởi bản chất của mình. Nếu mình được tạo ra chỉ để học bay, thì mình phải có toàn là những biểu đồ về bay bổng thay cho bộ óc. Nếu mình được tạo ra để bay ở những vận tốc cao, thì mình phải có đôi cánh của loài chim ưng, và phải sống bằng những con chuột nhắt thay vì bằng cá. Bố mình đã có lý. Nhất định mình phải quên đi sự rồ dại điên cuồng này. Mình phải bay nhập đàn trở lại, và bằng lòng với số phận của mình, số phận một con Hải âu với những giới hạn của nó.

Tiếng nói lắng xuống, và Jonathan đồng ý với tiếng nói. Chỗ của một con Hải âu, về đêm, là bãi bể, và chú nguyện rằng bắt đầu từ giờ phút đó trở đi, chú sẽ là một con Hải âu bình thường. Điều đó chắc chắn sẽ làm cho mọi kẻ khác hài lòng, sung sướng hơn.

Một cách mệt nhọc, Hải âu Jonathan Livingston cố gắng rời vùng nước đen tối và bay trờ về đất liền, thầm cám ơn những điều chú đã học hỏi được về cách bay thật thấp, để tiết kiệm sức.

Nhưng không, chú lại nghĩ tiếp. Mình sẽ không còn là mình nữa lúc trước nữa, mình bỏ tất cả những gì mình đã học được. Hiện mình là một con Hải âu như tất cả nhưng con Hải âu khác, và sẽ bay như tất cả những con Hải âu khác.Thế là chú bay lên cao độ một trăm bộ, bay nhanh về phía bờ bể.

Chú cảm thấy dễ chịu hơn với quyết định là chú chỉ là một con Hải âu của Đàn. Chú sẽ không còn gặp những trở ngại bởi cái ma lực đã thúc đẩy chú phải học nữa, chú sẽ không còn phải gặp thất bại nữa. Đó là một viễn ảnh đẹp, đủ để làm chú khỏi nghĩ ngợi nữa và tiếp tục bay trong đêm tối, hướng về các ánh sáng trên bãi bể.

Đêm Tối! Tiếng nói trống rỗng lại vang lên, báo động! Hải âu không bao giờ bay trong đêm tối!

Jonathan không vội nghe tiếng nói đó. Cảnh đẹp, chú nghĩ thầm. Ánh trăng và ánh đèn lung linh trên mặt nước, hắt ra những vệt sáng trong đêm, và tất cả đều yên lặng, bất động…

Bay xuống! Loài Hải âu không bao giờ bay trong đêm tối! Nếu Hải âu được tạo ra để bay trong đêm tối, thì bạn phải có đôi mắt của loài chim cú! Bạn phải có những biểu đồ thay vào chỗ bộ óc! Bạn phải có đôi cánh ngắn của loài chim ưng!

Và trong đêm tối, cách mặt bể độ một trăm bộ, Hải âu Jonathan nháy mắt. Sự đau đớn của chú, những quyết định khi nãy, tan biến đi.

Đôi cánh ngắn. Đôi cánh ngắn như đôi cánh chim ưng. Đó là lời giải thích của bài toán! Mình ngu thật! Cái mình cần có đôi cánh nhỏ tẹo, và mình chỉ cần xếp hết đôi cánh của mình lại, để chỉ bay với hai đầu cánh mà thôi! Đôi cánh ngắn!

Chú lao vụt lên cách mặt nước đen ngòm hai ngàn bộ, và không hề nghĩ đến thất bại, hoặc chết chóc, chú xếp đôi cánh sát vào thân mình, chỉ để hai đầu cánh nhỏ tí tẹo ló ra ngoài, và lộn đầu, lao thẳng xuống phía dưới.

Bên tai chú, tiếng gió rú như tiếng gầm thét của con quái vật. Bảy mươi dặm một giờ, chín mươi, một trăm hai mươi, và còn nhanh hơn nữa. Sức chịu đựng của đôi cánh ở vận tốc một trăm bốn mươi dặm một giờ bây giờ không nặng bằng khi bay với bảy mươi dặm một giờ lúc trước, và chỉ cần vặn nhẹ đầu cánh là chú rời đường bay trên mặt nước, như một viên đạn đại bác màu xám, dưới ánh trăng.

Hải âu Jonathan Livingston khép chặt đôi mắt lại để tránh sức gió, và sung sướng đến tột cùng. Một trăm bốn mươi dặm một giờ! Và chú kiểm soát được đường bay một cách hoàn hảo! Nếu mình bắt đầu lao thẳng từ cao độ năm ngàn bộ, thay vì từ cao độ hai ngàn bộ, không biết là mình sẽ đạt đến vận tốc nào…

Những điều chú vừa tự nguyện sẽ làm trong giây phút trước, giờ chú đã quên hết, trong khi bay vun vút giữa tiếng gió vù vù. Dù vậy, chú vẫn không cảm thấy có tội, khi chính chú tự bội ước với chú. Vì những lời hứa hẹn, tự nguyện như vậy chỉ dành cho những con Hải âu bằng lòng với cái bình thường. Những kẻ đã đạt đến chỗ huyền diệu của sự học hỏi, không can đến những lời ước nguyện đó.

Khi mặt trời mọc, Hải âu Jonathan Livingston lại bắt đầu thực hành lại. Từ cao độ năm ngàn bộ, những chiếc thuyền đánh cá chỉ còn là những vết nhỏ trên mặt phẳng xanh lơ của bể cả, Đàn Hải âu đi kiếm ăn buổi sáng chỉ còn là một đám bụi mờ, xoay vòng bên dưới.

Chú đang sống động, rung nhẹ với nỗi sung sướng vô biên, hãnh diện vì đã chế ngự được sự sợ hãi. Rồi, bất chợt, chú xếp gọn đôi cánh lại, chỉ để ló ra hai chiếc đầu cánh, và nhào thẳng xuống mặt bể. Và khi chú vượt qua cao độ bốn ngàn bộ, thì chú đã đạt được vận tốc giới hạn, lúc này gió đã trở thành một bức tường rắn chắc của tiếng động làm chú không tài nào vượt nhanh hơn được. Giờ đây chú đang bay thẳng xuống, với vận tốc hai trăm mười bốn dặm một giờ. Chú nuốt nước bọt, biết chắc rằng nếu chú xoè đôi cánh ra ở vận tốc này, thể xác chú sẽ nổ tung thành hàng triệu mảnh nhỏ li ti của chất Hải âu. Nhưng vận tốc là sức mạnh, vận tốc là niềm vui, và vận tốc là vẻ đẹp thuần tuý.

Chú bắt đầu bình phi (bay ngang) ở cao độ một ngàn bộ, uốn nắn đôi đầu cánh trong luồng gió khủng khiếp đó, các thuyền bè và đàn Hải âu trở nên to lớn với một tốc độ kinh khiếp, nằm ngay trên đường bay của chú.

Chú không thể dừng lại được; chú cũng chưa biết làm thế nào để quẹo ở cái vận tốc khủng khiếp ấy nữa.

Đụng phải vật gì lúc bấy giờ có nghĩa là chết ngay tức khắc.

Vì thế, chú đành nhắm chặt đôi mắt lại.

Sự việc xảy ra vào sáng sớm hôm ấy, ngay sau khi mặt trời vừa mới mọc, Hải âu Jonathan Livingston bay nhanh như một viên đạn, xuyên qua ngay đúng vào giữa trung tâm vòng tròn tạo bởi Đàn Hải âu đi kiếm mồi bữa sáng, với vận tốc hai trăm mười hai dặm một giờ, mắt nhắm lại giữa tiếng xào xạc của gió và lông. Lần này, Thần Hải âu May Mắn đã độ trì cho chú, và không có một ai bị chết cả.

Vừa lúc chú nghểnh cổ lên cao, bay thẳng đứng trong không trung, vận tốc hãy còn đến một trăm sáu mươi dặm một giờ. Và cuối cùng, khi chỉ còn bay với vận tốc hai mươi dặm một giờ, chú lại xoè đôi cánh ra, chiếc thuyền chỉ còn là một mẩu gỗ trên mặt biển ở bốn ngàn bộ phía dưới.

Tất cả ý nghĩ của chú lúc bấy giờ chỉ tập trung vào hai chữ Chiến Thắng. Vận tốc Giới Hạn! Một con Hải âu, bay với vận tốc hai trăm mười bốn dặm một giờ! Đó là một cuộc cách mạng, là giây phút vinh quang nhất trong lịch sử của Đàn, và trong giây phút đó một kỷ nguyên mới chợt mở cho Hải âu Jonathan Livingston. Bay một mình ra thật xa, đến khu vực mà chú vẫn thường bay tập, rồi xếp đôi cánh lại, để lao thẳng xuống, từ độ cao tám ngàn bộ, chú tự tìm cách khám phá ra phương pháp làm thế nào để bay quẹo.

Và chú thấy rằng, chỉ cần chuyển động một chiếc lông nơi đầu cánh, độ vài ly thôi là có thể bay quẹo một cách êm ái, ở một vận tốc rợn người. Nhưng trước khi chú học được điều đó, chú cũng đã nhận thức được rằng di chuyển nhiều hơn một chiếc lông ở đầu cánh ở vận tốc đó, bạn có thể bị xoáy đi như một viên đạn… và Hải âu Jonathan Livingston là Hải âu đầu tiên trên toàn thể thế giới này, đã thực hiện thành những thế bay nhào lộn trên không trung.

Suốt ngày hôm ấy, Hải âu Jonathan Livingston không phí thì giờ để trò chuyện với các con Hải âu khác, mà chỉ mải miết bay, bay mãi cho đến khi mặt trời đã lặn mất từ lâu. Chú khám phá ra lối bay vòng tròn trong mặt phẳng thằng đứng, lăn vòng chậm, lăn theo hình đa giác, bay xoáy tròn trên lưng…

Khi Hải âu Jonathan Livingston bay về nhập Đàn trên bãi bể, thì trời đã tối hẳn. Chú hơi ngây ngất, và mệt kinh khủng. Dù vậy chú vẫn sung sướng bay theo hình vòng tròn thẳng đứng, và lăn mình lại vào đúng lúc chót, trước khi thả chân xuống chạm mặt cát ướt. Chú nghĩ rằng khi mà các con Hải âu cùng đàn biết đươc điều đó, sự Cách Mạng mà chú đã thực hiện được, họ sẽ điên lên vì sung sướng. Bây giờ còn biết bao nhiêu là lẽ sống nữa! Thay vì những chuyến bay nhàm chán và buồn nản từ bờ đến những chiếc thuyền đánh cá, rồi bay lộn trở lại bờ, bây giờ họ có một lẽ sống! Chúng ta có thể tự chúng ta thoát ra khỏi sự dốt nát, chúng ta có thể tự thấy mình như những sinh vật tinh tuý, thông minh, và khôn khéo. Chúng ta có thể Tự Do! Chúng ta có thể học bay bổng!

Những năm tháng sẽ đến bỗng bừng sáng vì hứa hẹn. Tất cả đàn Hải âu đều quây quần lại, họp thành một Hội Đồng bất thường khi chú đáp xuống, và có lẽ họ đã hội họp như vậy khá lâu. Thật ra thì họ đang chờ đợi chú.

“Hải âu Jonathan Livingston! Hãy ra đứng giữa Hội Đồng!” Tiếng nói của Hải âu Trưởng Đàn một cách hết sức long trọng. Ra đứng giữa Hội Đồng chỉ có nghĩa là đương sự sẽ đón nhận một vinh dự thật lớn lao, hoặc hứng chịu mối nhục nhã cũng lớn lao không kém. Những Hải âu Trưởng Đàn từ trước đến nay đều là những con Hải âu đã từng được vinh dự ra đứng giữa Hội Đồng. Lẽ dĩ nhiên chú đã nghĩ ra, Đàn Hải âu đi kiếm ăn buổi sáng, họ đã thấy tận mắt chuyến bay Cách Mạng của mình! Nhưng mình đâu có muốn nhận lãnh vinh dự. Mình đâu có mộng trở thành Hải âu Trưởng Đàn. Mình chỉ muốn chia sẻ những gì mình đã khám phá ra được, để chỉ cho tất cả mọi Hải âu chúng ta đều thấy những chân trời mới mà thôi. Chú bước tới trước.

“Hải âu Jonathan Livingston!” giọng của Cụ Trưởng Đàn lại vang lên “Hãy tiến ra giữa Hội đồng vì đã có tác phong nhục nhã, dưới mắt các bạn Hải âu của anh!”

Điều này có tác dụng như sét đánh vào đầu Hải âu Jonathan Livingston. Hai đầu gối chú bỗng khuỵu xuống, bộ lông bỗng rũ ra, và hai tai thì chỉ còn nghe được một thứ tiếng lùng bùng. Bị ra giữa Hội Đồng vì nhục nhã? Không thể có được! Chuyến bay Cách Mạng! Họ không thể hiểu được! Họ nhầm lẫn. Họ đã nhầm lẫn.

“… vì tinh thần vô trách nhiệm rõ ràng,” tiếng nói long trọng lại vang lên “vi phạm truyền thống và phẩm giá của gia đình Hải âu…”

Bị đứng ra giữa Hội Đồng vì lỗi nặng có nghĩa là chú sẽ bị loại khỏi xã hội của loài Hải âu, bị bắt buộc phải sống cô quạnh ở các ghềnh đá xa xôi.

“… Hải âu Jonathan Livingston, một ngày kia, anh sẽ nhận thức được rằng sự vô trách nhiệm không có lợi ích gì cả. Đời sống là một bí mật mà ta không thể tìm hiểu được, ngoại trừ việc chúng ta được sinh ra trong cõi đời này để ăn, để sống cho đến khi nào chúng ta còn có thể sống được.”

Không bao giờ một con Hải âu lại có quyền trả lời trước Hội Đồng Đàn, nhưng giọng nói của Jonathan Livingston lại cất lên. “Vô trách nhiệm? Trời ơi!” Chú nói như thét. “Còn ai có thể có được tinh thần trách nhiệm cao hơn một con Hải âu đã tìm thấy, và theo đuổi một mục đích cao cả hơn cho cuộc sống? Hàng ngàn năm nay chúng ta chỉ toàn phí thời giờ để xâu xé những chiếc đầu cá, nhưng bây giờ, chúng ta đã có một lý lẽ để sống, để học hỏi, để khám phá những cái mới lạ, để được Tự Do! Hãy cho tôi một may mắn cuối cùng để tôi trình bày cùng quý vị những gì tôi vừa khám phá được…”

Cả Đoàn Hải âu bất động như những tượng đá.

“Tình huynh đệ giữa chúng ta đã hết,” tất cả những các Hải âu đều đồng thanh cất tiếng, chúng nó đồng loạt bịt tai lại với Hải âu Jonathan Livingston.

Hải âu Jonathan Livingston sẽ phải sống những ngày còn lại của chàng trong sự cô độc và chàng đã bay xa, thật xa, xa hơn các ghềnh đá xa xôi kia nữa. Điều làm chàng phiền muộn không phải là sự cô độc, mà chính là sự từ chối, không chịu tin tưởng vào sự vinh quang của nghiệp bay đang chờ đợi chúng, của các Hải âu trong Đàn, chúng đã khước từ, không chịu mở mắt để nhìn rõ sự việc.

Mỗi ngày chàng lại học hỏi được nhiều hơn lên. Chàng học được rằng khi bay lao thẳng xuống, với vận tốc cao, chàng có thể bắt được những con cá vừa ngon vừa hiếm, thường hay họp đàn ở độ sâu ba bốn thước dưới mặt biển. Giờ đây, chàng không còn cần đến những chiếc thuyền đánh cá, và những mẩu bánh mì để sinh sống nữa. Chàng đã học được cách để ngủ trên không trung, tập được cách định hướng đường bay trong đêm tối, giữa những cơn gió ngược từ ngoài bể thổi vào, chàng đã học được cách bay hàng trăm dặm, từ khi mặt trời lặn cho đến khi mặt trời mọc lại. Với sự tự chủ luôn luôn vững chắc, chàng đã bay xuyên qua lớp mây mù dày đặc của biển khơi, và vượt qua lớp sương mù đó để tìm thấy những vòm trời sáng lạng hơn… trong khi lũ Hải âu tầm thường khác đang đứng trên mặt đất, không biết gì hơn là sương mù và mưa. Chàng đã học được cách nương theo chiều gió lớn để vào sâu trong nội địa, thích thú với những bữa ăn gồm toàn những loài côn trùng lạ.

Những gì mà chàng ước mong mang lại cho Đàn, giờ đây chỉ mỗi mình chàng được hưởng; chàng đã học bay, và đã không luyến tiếc về cái giá mà chàng phải trả. Hải âu Jonathan Livingston nhận thấy rằng sự nhàm chán, sự sợ hãi, và sự giận hờn là các lý do đã làm cho đời sống của Hải âu quá ngắn ngủi, và khi mà các lý do trên đã không còn tồn tại trong tâm khảm, trong ý nghĩ của chàng nữa thì quả nhiên chàng đang sống trong một cuộc sống thần tiên.

Họ đến đó vào một buổi chiều, và thấy Jonathan đang bay lượn một cách bình thản và đơn độc trong bầu trời thân yêu của chàng. Hai con Hải âu vừa xuất hiện bên đôi cánh của Jonathan có vẻ tinh nguyên như ánh sáng của những vì sao, và hơi ấm phát ra từ thân hình họ đượm một vẻ hiền hoà và thân thiết trong không khí ở cao độ, của đêm. Nhưng cái diễm lệ nhất, vẫn là kỹ thuật bay tuyệt vời của đôi Hải âu này, đầu cánh chúng chuyển động một cách chính xác, giữ khoảng cách với hai đầu cánh của Jonathan, độ hai phân, luôn luôn cố định. Không nói một lời nào, Jonathan Livingston bắt đầu thử thách chúng, một thử thách mà chưa có con Hải âu nào qua được. Chàng vặn cong đôi cánh, bay chậm đến sát giới hạn của triệt nâng. Đôi Hải âu rạng rỡ kia cũng bay chậm theo chàng, một cách uyển chuyển, và vẫn giữ nguyên vị trí cũ. Chúng tỏ ra khá thành thục về kỹ thuật bay chậm.

Jonathan Livingston xếp đôi cánh lại, lăn một vòng tròn, và lao mình thẳng xuống với vận tốc một trăm chín mươi dặm một giờ. Đôi Hải âu lạ cũng vẫn lao mình theo chàng thẳng xuống, trong một đội hình tuyệt hảo.

Cuối cùng, chàng bay ngược trở lên, với những vòng lăn chậm thẳng đứng. Chúng cũng lăn chậm theo chàng tươi cười.

Chàng trở lại bình phi, và hơi lo lắng một lúc, trước khi cất tiếng. “Thật là tài,” chàng nói, “các anh là ai?”

Chúng tôi thuộc Đàn của anh đó Jonathan ạ. Chúng tôi là những người anh em của anh đó.” Tiếng nói thật mạnh mẽ, nhưng bình thản. “Chúng tôi đến đây để mang anh đến một chỗ cao hơn, để mang anh về.”

“Tôi không còn nhà cửa. Tôi không còn có Đàn. Tôi là kẻ bị xua đuổi ra khỏi Đàn. Hiện giờ chúng ta đang bay trên đỉnh của Ngọn Gió Núi Trường Sơn. Chỉ có vài trăm bộ nữa thôi, là tôi không thể nào lê nổi cái thân xác già nua này lên cao hơn được nữa.”

“Không, anh có thể bay cao hơn chứ, Jonathan. Vì anh đã học bay. Anh đã học hết giai đoạn này rồi, và giờ đã đến lúc anh phải học đến giai đoạn khác.”

Như đã hiểu biết trong cuộc đời chàng, giờ đây, Jonathan Livingston hiểu ngay. Họ có lý. Chàng có thể bay cao hơn nữa, và bây giờ đã đến lúc trở về rồi. Chàng nhìn bao quát cả bầu trời một lần cuối cùng, nhìn qua cái môi trường mang màu bạc, nơi chàng đã học hỏi được không biết bao nhiêu chuyện.

Cuối cùng chàng thốt lên. “Tôi sẵn sàng.”

Và Hải âu Jonathan Livingston bay lên cao với đôi Hải âu sáng như các vì sao để rồi biến dạng trong một bầu trời hoàn toàn tối đen.

Thì ra đây là Thiên Đường, chàng nghĩ như vậy, và chàng phải mỉm cười với chính chàng. Vừa mới chân ướt chân ráo bay vào ngưỡng cửa Thiên Đường mà đã tìm cách phân tích Thiên Đường là gì, có vẻ không được kính trọng nơi linh thiêng này lắm.

Giờ đây, trong lúc Jonathan Livingston từ cõi đời bay lên, sát cánh với đôi Hải âu rạng rỡ hào quang, Jonathan nhận thấy là thân hình mình bỗng cũng trở nên sáng chói như đôi Hải âu kia. Đúng vậy, chú Hải âu trẻ tuổi Jonathan Livingston vẫn còn đó, nhưng hình thể bên ngoài đã biến đổi.

Bên ngoài trông vẫn như hình thể một con Hải âu, nhưng giờ đây, chàng đã có thể bay giỏi hơn gấp bội lần so với cái hình thể cũ của chàng. Vì, với phân nửa nhưng cố gắng, chàng nghĩ vậy, mình có thể bay nhanh gấp đôi, thành tích mình có thể bay hơn gấp đôi, so với những ngày mình có thể tự hào nhất, khi còn ở Trần Thế!

Giờ đây, bộ lông của Jonathan đã sáng rực lên, và đôi cánh chàng đã láng coóng, và toàn hảo như những lá bạc đã được đánh bóng kỹ lưỡng. Với lòng sung sướng tột cùng, Jonathan bắt đầu học hỏi về đôi cánh, mang cả sức mạnh phổ vào đôi cánh mới mới mẻ đó.

Với vận tốc hai trăm năm mươi dặm một giờ, chàng cảm thấy chàng đã gần đạt đến vận tốc tối đa bình phi tối đa. Với hai trăm bảy mươi dặm một giờ, Jonathan nghĩ chàng chỉ có thể bay nhanh đến thế là cùng, và cảm thấy một nỗi thất vọng não nề. Thân thể mới của Jonathan vẫn chỉ có thể hoạt động trong một giới hạn nào đó mà thôi, và dù có thể bay nhanh hơn vận tốc bình phi kỷ lục khi xưa gấp bội, Jonathan vẫn phải gặp phải sự giới hạn, mà nó phải tốn nhiều nỗ lực để vượt qua. Jonathan nghĩ rằng đáng lý trên Thiên Đường không nên có sự giới hạn.

Những cụm mây đã dạt sang hai bên, hai Hải âu bạn đã hướng dẫn chàng chúc. “Hạ cánh an toàn nghe Jonathan Livingston”, rồi biến mất trong bầu không khí nhẹ lâng.

Jonathan đang bay trên mặt bể, hướng về phía bãi bể hình răng cưa. Một vài con Hải âu đang bay tập trong luồng gió thăng chuyển trên ghềnh đá. Xa xa, về hướng Bắc, ngay trên đường chân trời, một vài con Hải âu khác đang bay. Ảnh tượng mới, suy tư mới, những câu hỏi mới. Tại sao chỉ có ít Hải âu thế này? Đáng lý ra Thiên Đường phải là nơi tụ họp của hàng đàn Hải âu cơ chứ! Và tại sao mình bỗng nhiên lại mệt mỏi như thế? Đáng lý ra những con Hải âu trên Thiên Đường đều không được mệt mỏi, hoặc không phải ngủ chứ?

Chàng đã nghe thấy điều này ở đâu nhỉ? Ký ức về cuộc sống trên Trần Thế hoàn toàn không còn gì nữa. Trần Thế là nơi Jonathan Livingston đã học hỏi được nhiều điều, lẽ dĩ nhiên, nhưng các chi tiết đều trở thành mờ ảo – chàng chỉ nhớ mang máng đến việc tranh đấu để kiếm cái ăn, và sự kiện chàng bị xua đuổi khỏi Đàn.

Chục con Hải âu từ bờ bể bay đến gặp gỡ chàng, tất cả không nói lên lấy một lời. Chàng chỉ nhận thức được rằng họ đang chúc mừng chàng đã đến đây, và nơi đây là nhà của chàng. Đó là một ngày trọng đại với chàng, một ngày chàng không nhớ đến Mặt Trời lúc mới mọc nữa.

Jonathan bay vòng lại để đáp trên bãi cát, vỗ đôi cánh để ngưng lại vài phân trong không khí, rồi thả mình nhẹ nhàng trên bãi cát. Các con Hải âu khác cũng đáp xuống, nhưng không con nào chuyển động lấy một cái lông. Chúng nghiêng mình theo chiều gió, những đôi cánh rực xoè thẳng ra, xong chúng những đôi cánh thế nào để ngừng ngay lại khi đôi chân vừa chạm đất. Sự kiểm soát các động tác thật là tinh vi, nhưng lúc bấy giờ Jonathan mệt mỏi nên không buồn tập thử. Cứ đứng như vậy trên bãi cát, không ai buồn nói lên một lời, cho đến khi chàng ngủ thiếp.

Trong những ngày kế tiếp, Jonathan Livingston nhận thấy rằng còn rất nhiều điều về bay mà chàng cần phải học, như chàng đã từng học khi còn sống ở cõi dưới. Và một điều khác biệt, là ở đây, tất cả Hải âu đều nghĩ như chính chàng nghĩ. Đối với mỗi Hải âu tại đây, điều quan trọng nhất trong cuộc sống là làm thế nào để đạt đến cái toàn mỹ ở điều mà họ thích nhất; và điều đó, là sự bay bổng. Chúng là những con Hải âu tuyệt mỹ, tất cả, và mỗi ngày chúng tập bay hết giờ này qua giờ khác, để bay thử các hình nhào lộn rất khó khăn và rắc rối.

Đã từ lâu lắm, Jonathan không còn nhớ đến cái thế giới mà chàng đã từng sống trước khi dến đây, nơi mà cả Đàn sinh sống, với đôi mắt khép chặt lại sung sướng vì được bay, nơi mà họ dùng đôi cánh làm cứu cánh để tìm và tranh nhau từng miếng mồi. Nhưng rồi thỉnh thoảng, chỉ trong giây lát, chàng cũng nhớ đến cái thế giới đó.

Một buổi sáng kia, khi bay đi tập với sư phụ của chàng, Jonathan Livingston đã nhớ đến cái thế giới xa xưa của chàng, khi hai thầy trò đang dừng chân nghỉ mệt trên bãi cát, sau khi đã tập bay lăn tròn, với đôi cánh xếp lại.

“Những con Hải âu khác đâu cả rồi, hở Sullivan?” chàng hỏi trong im lặng, vì hiện nay chàng đã khá thành thục trong việc sử dụng thần giao cách cảm mà các Hải âu ở đây vẫn dùng để thay thế tiếng chí chóe chói tai. “Tại sao chúng ta chỉ có ít Hải âu thôi vậy? Vì nơi tôi sống trước kia, có đến…”

“… hàng ngàn, hàng vạn Hải âu. Tôi biết rồi.” Hải âu Sullivan gục gặc đầu ngắt lời Jonathan. “Jonathan Livingston này, câu trả lời duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra, có lẽ anh là trường hợp duy nhất trong hàng triệu con Hải âu. Đa số chúng ta đều tiến tới một cách thật là chậm chạp. Chúng ta đi từ thế giới này đến một thế giới khác, gần giống hệt như thế giới trước, quên ngay tức khắc chúng ta đã từ đâu đến, không cần biết rằng chúng ta sẽ đi về đâu, chỉ biết sống cho hiện tại thôi. Anh có một ý niệm nào về số đời sống mà chúng ta phải trải qua để nhận định được là có nhiều điều trong đời sống cần thiết hơn là ăn, tranh dành, và thế lực trong Đàn không? Một ngàn đời, một vạn đời Jonathan ạ! Và chúng ta lại phải trải qua một trăm đời nữa để có thể học được ý nghĩa của sự hoàn mỹ, cộng thêm một trăm đời nữa nhận thức được mục đích của sự sống là làm thế nào đạt đến cái toàn mỹ đó. Lẽ dĩ nhiên qui luật đó cũng áp dụng cho chúng ta: chúng mình tự chọn lấy kiếp sống tương lai của mình bằng những gì mình học hỏi được trong kiếp sống này. Đừng học hỏi gì cả, thì kiếp sống tới anh cũng sẽ giống hệt như kiếp này, với tất cả những giới hạn, và gánh nặng phải vượt qua”.

Sullivan xoè đôi cánh ra, và hướng về chiều gió. “Nhưng riêng anh,” Sullivan tiếp, “thì anh đã học quá nhiều trong một kiếp sống, nên anh không phải trải qua hàng ngàn kiếp để đạt đến đời sống này.”

Giây phút sau đó, họ đã tung mình trên không trung, để tập bay. Thế bay lăn hợp đoàn theo một hình đa giác là một thế bay khó, vì khi quay đến nửa vòng, Jonathan phải bay ngửa bụng lên trời, và nghĩ ngược lại, trở ngược chiều lái của đôi cánh, và trở thế nào để phù hợp một cách chính xác với vị sư phụ.

“Hãy thử lại một lần nữa!” Sullivan lập đi, lập lại mãi. “Hãy thử lại một lần nữa.” Để rồi cuối cùng thốt lên, “tốt lắm”. Và hai thầy trò lại bắt đầu tập những thế bay khác.

Một buổi chiều, các Hải âu không phải bay đêm cùng nhau quây quần trên bãi cát, để suy nghĩ. Jonathan Livingston thu hết can đảm, đi đến gặp Hải âu Trưởng đàn, mà theo lời đồn đại, thì vị này sẽ di chuyển được đến một thế giới cao hơn.

“Cụ Chiang…” chàng cất tiếng hơi mất bình tĩnh.

Lão Hải âu già nua nhìn chàng bằng ánh mắt trìu mến. “Gì đó con?” Thay vì bị tháng năm làm cho yếu kém đi, vị Trưởng đàn như được tháng năm làm cho khoẻ mạnh thêm lên; ông ta có thể bay nhanh hơn bất cứ con Hải âu nào trong Đàn, và ông ta đã học được những tuyệt mỹ mà các Hải âu khác chưa bắt đầu biết một cách phiến diện.

“Thưa Cụ Chiang, thế giới này có phải là Thiên Đường, phải không thưa Cụ?”

Dưới ánh trăng, vị Trưởng Đàn mỉm cười. “Hải âu Jonathan Livingston, cháu lại đang học hỏi nữa rồi.” Cụ già nói.

“Thưa Cụ, thế sau thế giới này thì chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta sẽ đi đến đâu? Có chỗ nào là Thiên Đường không?”

“Không đâu Jonathan, không có chỗ nào như thế cả. Thiên Đường không phải là một địa điểm. Thiên Đường là một trạng thái khi đã đạt được sự hoàn mỹ.” Cụ già im lặng một lúc lâu. “Cháu bay nhanh lắm, có phải không?”

“Thưa… thưa cháu thích tốc độ.” Jonathan đáp, hơi ngạc nhiên, nhưng hãnh diện vì đã được Cụ Trưởng Đàn lưu tâm.

“Cháu sẽ bắt đầu đi đến Thiên Đường đó, Jonathan, khi mà cháu đạt được vận tốc toàn mỹ. Và vận tốc toàn mỹ không phải đạt được khi bay với vận tốc một ngàn dặm một giờ, hoặc một triệu dặm một giờ, hoặc bay với vận tốc của ánh sáng. Vì mỗi con số đều là những giới hạn, mà sự toàn mỹ thì không có giới hạn. Vận tốc toàn mỹ, là có mặt ngay ở bất cứ chỗ nào mình muốn đến vậy.”

Không báo trước, Cụ Chiang vụt biến mất để rồi lại xuất hiện cách đó khoảng mười lăm thước, trên bờ bể, trong vòng một nháy mắt. Vừa lúc đó, Cụ lại biến mất một lần nữa, và trong khoảng thời gian độ một phần ngàn giây đồng hồ sau đó, Cụ đã đứng bên cạnh vai của Jonathan Livingston. “Thích thú thật!” Cụ già nói.

Jonathan đứng ngơ ngác. Chàng quên hỏi tiếp về Thiên đường. “Cụ làm thế nào để được như vậy? Cụ cảm thấy thế nào? Cụ có thể di chuyển bao xa?”

“Mình có thể đến đến bất cứ nơi nào, và bất cứ lúc nào mà mình thích,” vị Trưởng Đàn đáp. “Ta có thể đi đến bất cứ nơi nào, và bất cứ lúc nào ta có thể nghĩ ra”. Cụ già nhìn ra ngoài khơi. “Lạ lùng thật. Những con Hải âu đã quên lãng sự toàn mỹ để đặt trọng tâm vào sự viễn du, lại không đến đâu cả, một cách chậm chạp. Còn những con Hải âu không màng đến viễn du, để nghĩ đến sự toàn mỹ, thì lại có thể đi đến bất cứ nơi nào, trong chớp mắt. Jonathan Livingston, cháu nên nhớ là Thiên Đường không phải là địa điểm hoặc một thời điểm, vì địa điểm và thời gian thật chẳng có ý nghĩa nào cả. Thiên đường là…”

“Cụ có thể dạy cháu bay như vậy được không?” Hải âu Jonathan Livingston run lên với ý nghĩ sẽ chinh phục một bí mật khác.

“Lẽ dĩ nhiên là được, nếu cháu muốn học.”

“Cháu muốn học lắm. Bao giờ thì chúng ta có thể bắt đầu được, thưa cụ?”

“Chúng ta có thể bắt đầu ngay từ bây giờ nếu cháu thích.”

“Cháu muốn được học bay như vậy.” Jonathan nói, và đôi mắt chàng rực lên một ánh sáng kỳ lạ. “Cụ bảo cháu phải làm những gì đi.”

Cụ Chiang nói một cách chậm chạp và dò xét chàng Hải âu trẻ một cách hết sức ý nghĩa.

“Đến bất cứ nơi nào,” Cụ nói. “Cháu phải bắt đầu bằng cách biết rằng cháu đã đến nơi rồi…”

Theo Cụ Chiang, thì bí quyết là Jonathan phải đừng nghĩ là chàng bị ràng buộc trong giới hạn của thể xác, có đôi cánh dài hơn thước, với những thành tích có thể được ghi chú vào các biểu đồ. Bí quyết là phải biết rằng bản chất thật của chàng sống một cách toàn mỹ, như một con số chưa được viết lên, ở khắp mọi nơi cùng lúc, xuyên qua không gian và thời gian.

Jonathan Livingston ghi nhớ những lời đó, và ngày này qua ngày khác, từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn, chàng mang những lời của Cụ Chiang ra để thực nghiệm.

Nhưng với tất cả những nỗ lực, chàng vẫn không thể di chuyển một ly nào, từ chỗ chàng đang đứng cả.

“Hãy quên đức tin đi!” Cụ Chiang nhắc đi nhắc lại. “Cháu không cần đức tin để bay, cháu chỉ cần quán triệt sự bay. Hai điều này không hoàn toàn giống nhau đâu cháu nhé. Bây giờ hãy thử lại lần nữa…”

——————–

(1) Trong khi bay, nếu lực nâng của không khí nhỏ hơn trọng lượng của vật đang bay, vật này sẽ rơi xuống.

(2) Cứu cánh: Mục đích cơ bản.

(Còn một kỳ nữa)

Thảo luận

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Thư viện

Chuyên mục