(Trích từ: Mộng Kinh Sư, Phan Du, Cảo Thơm xuất bản, 1971)

Linh Mụ tự, thuở đó, còn mang tên là Thiên Mụ tự, vào mùa đông năm Ất Hợi – ngày 16 tháng Mười âm lịch, tức ngày 22 tháng 11 năm 1695 – được Quốc Chúa chọn làm nơi lưu trú cho một vị thượng khách: Thạch Liêm hòa thượng, hiệu Đại Sán Hán Ông.
Ngay khi đến ở tại ngôi cổ tự “chung quanh có trồng nhiều cổ thụ, day mặt ra bờ sông. Trước chùa, ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo”. 1 Vị lão hòa thượng sính thi họa này, đối cảnh sinh tình, đã có thơ vịnh như sau:
Cảnh bụt từ xưa chúa Nguyễn xây,
Cửa son, điện ngọc phủ rêu đầy.
Một đời tươi sáng còn cây cỏ,
Muôn thuở mưa hoa kết điện đài.
Sơn thủy ngoài hiên mây ngả bóng,
Đi về trước ngõ cánh buồm bay.
Trích tiên chuyện cũ chùa Thiên Mụ,
Hồn mộng mơ màng trở lại đây. 2
Việc Thạch Liêm lưu trú tại chùa Thiên Mụ, cũng như chuyện Quảng Nam Nguyễn vương hai lần thỉnh cầu vị lão tăng này qua Việt Nam đem “kim thằng khai giác lộ” 3 , lần đầu dưới thời Anh Tôn – do nhà sư Tạ Nguyên Thiều tự Hoàng Bích phụng mạng qua Quảng Đông đón rước (không có kết quả) và thỉnh tượng Phật, chuông khánh – và lần này, do Trần Thiềm Quan cùng Ngô Tư Quan mang thư của Quốc Chúa và của Quốc sư Hưng Liên qua mời, cũng như việc tổ chức những pháp hội trọng thể để Đại Sán Hán Ông truyền thụ Bồ Tát giới cho một nghìn bốn trăm tăng chúng tại Phú Xuân và ba trăm tăng chúng ở Hội An, sau cùng, chuyện Minh Vương đem vương mẫu, công chúa, hậu cung, quyến thuộc đồng thọ Bồ Tát giới và quì thọ Hộ pháp Kim cang thư 4 nhân ngày Phật Đản, mồng tám tháng Tư năm Ất Hợi, thực đã quá đủ để chứng tỏ cái ưu thế của Phật giáo ở Đàng Trong vào thuở đó.
Phật giáo, nhất là Thiền học, trong cái thế phục hưng, đã gây được một ảnh hưởng rất sâu đậm trong giới sĩ phu, quan lại, và cả trong vương phủ, để ngay trong giới cao môn, quyền quý, không hiếm gì những hạng lương đống, khôi nho, vì nặng tình với Đạo pháp mà coi nhẹ mùi vị đinh chung và cái mộng công hầu, khanh tướng. Đệ tứ công tử của Thái Tôn, tức Quận công Nguyễn Phước Hiệp, mới hai mươi tuổi đã lãnh mệnh làm nguyên soái, chống cự quân Trịnh xâm lăng vào năm Nhâm Tý (1672). Một phen đại thắng, được ân hưởng những trăm lượng hoàng kim, năm chục cây gấm, nhưng rồi thay vì bén mồi phú quý, say bả vinh hoa, đã khước từ tất cả mọi tước lộc, xua đuổi bọn thiếp hầu, lập am mây vui cảnh nhàn lạc, tu hành, đặt túi kinh luân và tài thao lược ra ngoài vòng cương tỏa 5 , Đông Triều hầu tức Tham chính đoan sự Trần Đình Ân, có công phò tá bốn triều, lúc tuổi đã già càng được trọng dụng, nhưng không tham luyến quyền cao, chức trọng, một hai thỉnh cầu xin lui gót về chốn điền viên. Một khi được Quốc Chúa chấp thuận, hầu liền tìm về chùa Bình Trung hưởng thú ẩn cư, vui say Thiền học, chăm lo vun xới hoa Đàm thay cho đào, lý 6 . Lại có Thiều Dương hầu, anh thứ ba 7 của Quốc Chúa, tuy không chuyên tâm về Phật học, không gửi mình vào chốn Thiền môn, nhưng vẫn dửng dưng với tuồng danh lợi, lập vườn ở mé sông, sống trong mấy gian nhà cỏ đơn sơ, tiêu điều, với cái đạo phong của hạng thoát tục, dứt tuyệt mê luyến sân si, tháng ngày bỡn cợt với gió trăng, kho trời vô tận, “trồng cây chơi cảnh, ngồi đất uống trà, tuyệt nhiên không có vẻ vương hầu, phú quý”. 8
Và ngay trong hàng chân chủ, lòng sùng mộ giáo lý Phật đà cũng từng được biểu thị qua rất nhiều công trình kiến tạo hoặc tu trúc chùa chiền, đúc chuông, đúc tượng, ân ban biển vàng, bi văn, câu đối hoặc các thứ tự khí cho rất nhiều danh lam, Phật đường trong cõi. Phần đông các chúa như Hiền Vương, Nghĩa Vương, Minh Vương và Võ Vương đều có Pháp danh. Nhất là Minh Vương thì quả đúng là vị chân chủ “muốn lấy nghiệp tu để gầy nghiệp bá”. Vị chúa trẻ tuổi này đã sùng Nho lại rất mộ Phật, làu thông kinh sử, và đạo tâm đã nảy nở ngay từ thuở còn thơ ấu. Cùng với công cuộc trùng tu Văn Miếu ở Triều Sơn, Chúa đã thực hiện rất nhiều công quả trong việc “đắp trường thành che chở vườn Thiền”.
Với vận hội tốt đẹp và những cơ duyên may mắn này, Thiên Mụ tự, dưới thời Quốc Chúa, hẳn phải có đủ điều kiện thuận lợi để đạt tới cái tư thế, phong độ của một đệ nhất danh lam ở Thuận Hóa. Quy mô và vẻ tráng lệ của nó vượt xa hẳn các cảnh chùa cùng được kiến tạo từ thuở sinh thời của Tiên Chúa. Sùng Hóa ở Phú Vang (Thừa Thiên), Bửu Châu ở Trà Kiệu (Quảng Nam), Kính Thiên ở Lệ Thủy (Quảng Bình) 9 , so với Thiên Mụ tự, dưới thời Quốc Chúa, mờ nhạt như những hoa sao cùng nở một lúc với vầng nguyệt đêm rằm.

Quả vậy, vì kể từ năm Canh Dần (1710) – Hiển Tôn thứ 19 – những hồi chuông triêu mộ của Thiên Mụ tự không chỉ đánh tan niềm tục ở các thôn mạc thuộc vùng Hà Khê, mà còn ngân xa tỏa rộng khắp cả một vùng bao trùm Kinh sư sau này, nhờ ở những loạt âm ba du viễn của một cỗ Đại hồng chung nặng trên ba nghìn hai trăm tám mươi lăm cân, cao hai thước rưỡi tây và rộng một thước hai, với một bài minh khắc trên mặt, do tự tay Chúa làm ra.
Nhưng Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế hay Minh Vương vẫn chưa lấy thế làm hài lòng. Có thể cảnh thanh bình đã vững chắc của đất nước, và những thắng lợi về mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam đã làm cho vị chân chủ tự phong là Quốc Chúa này chú trọng càng nhiều hơn công việc khuếch đại Thiên Mụ tự, để tỏ niềm tri ân đối với vị “trích tiên”, sứ giả nhà Trời.
Vào thuở đó, khói lửa của cuộc phân tranh Nam – Bắc từng kéo dài dai dẳng non nửa thế kỷ (1627-1673) đã được đôi bên hai họ Nguyễn, Trịnh cùng dập tắt từ trên bốn chục năm trời, sau trận thảm bại của Trịnh Tạc ở bờ sông Nhật Lệ. Và, ở phương Nam, bờ cõi càng mở rộng với sự thành lập, ở hạ phần Lục Chân Lạp 10 , các dinh Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), các huyện Phước Long (Đồng Nai), Tân Bình (Saigon) vào năm 1698 11 , mở đất thêm nghìn dặm, được dân số hơn bốn vạn 12 . Cùng với những thành tích này, công cuộc dẹp nội loạn ở Chân Lạp, vào năm Ất Dậu (1705) và việc bày vẽ cho quân dân khai khẩn ruộng đất ở Vũng Cù của Chính thống Cai cơ Nguyễn Cửu Vân, và, thêm vào đó, sự quy thuộc của Mạc Cửu, năm 1708 – được Chúa cho nhậm chức Tổng binh trấn Hà Tiên – càng làm cho uy danh của Quốc Chúa lan rộng từ Phú Xuân đến vịnh Thái Lan 13 , về phía Chiêm Thành, sau vụ đánh bắt được vua Chiêm là Bà Tranh vào năm Chính Hòa thứ mười ba (1692), đổi nước ấy thành trấn Thuận Thành, phong cho viên quan cũ của vua Chiêm là Tả trà viên 14 Kế Bà Tử làm Khâm lý, sau đó lại phong làm Phiên vương, Nguyễn phủ hàng năm được Chiêm Thành nạp cống: hai thớt voi, hai chục con bò vàng, sáu chiếc ngà voi, mười sừng tê, năm trăm khăn vải trắng, năm chục cân sáp ong, hai trăm tấn da cá, bốn trăm thùng cát phất sa, năm trăm chiếc chiếu tre trắng, hai trăm cây gỗ mun và một chiếc thuyền dài. 15
Những thành tích vẻ vang của công cuộc khai cơ, hưng nghiệp kể trên, nhất là việc xâm lấn lĩnh thổ Chân Lạp – một hoài bão từng được ủ ấp từ thời Chúa Sãi hay Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng đế – lẽ tất nhiên phải có dự phần vào cái động cơ đã thúc đẩy Quốc Chúa thực hiện các công tác trùng tu, kiến tạo nhằm làm tôn trưởng thêm phần nguy nga, tráng lệ cho Thiên Mụ tự, vào năm Giáp Ngọ (1714). Và có thể cũng dự phần vào động cơ này, một sự kiện may mắn, tránh cho cơ đồ cái họa ngửa nghiêng, là việc phát giác và đàn áp kịp thời một âm mưu phản loạn, vào năm Kỷ Sửu (1709) 16 . Đó là vụ mưu phản của Nội hữu Phò mã Tống Phước Thiệu, vốn nuôi tham vọng đoạt ngôi chân chủ, Thiệu đã quyến dụ được Cai đội Nguyễn Cửu Khâm, cùng lập mưu cho thuộc hạ vào Quảng Nam, bí mật liên kết một số hào kiệt, dấy binh đánh lấy Bình Khương, Phú Yên, rồi quay về Quảng Nam, cướp quân của Hòa Đức, để từ đấy đánh thẳng ra Chánh dinh. Nhưng trong số người dự mưu, có tên Nguyễn Phước Thuận, vì sợ hãi mà tố cáo. Những kẻ chủ mưu đều bị bắt, bị giết, riêng Tống Phước Thiệu được Quốc Chúa, vì lượng khoan hồng, tha cho tội chết, bãi làm thứ dân, giam cầm ở vườn Bát Khải 17 .
Công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự được Chúa giao phó cho Chưởng cơ Tống Đức Đại. Một năm tròn xẻ cây, chặt đá, đắp đất, nung gạch, với sự gia công, gắng sức đêm ngày của một số đông đảo những tay thợ thiện nghệ được huy động từ khắp nơi trong cõi, công cuộc trùng tu đã làm cho ngôi cổ tự càng trở nên nguy nga, đồ sộ, tỏa rạng ánh vàng son, châu báu, với rất nhiều điện, đường, lâu, các như Thiên Vương điện, Ngọc Hoàng điện, Đại Hùng bửu điện, Thập Vương điện, Đại Bi điện, Dược Sư điện, như Tàng Kinh lâu, Chung Cổ lâu, như Thuyết pháp đường, Vân thủy đường, Thuyền đường và Tri vị đường, ngoài ra còn có Tăng liêu cùng Thuyền xá những vài mươi sở, với vườn Côn Gia trong đó có trên vài mươi phương trượng, với Điếu đài xây cất ở bên sông, để Quốc Chúa làm nơi giải trí, di dưỡng tinh thần mỗi kỳ thăm viếng 18 . Lại mở hội lớn vào dịp khánh thành, xuất kho chẩn tế tiền, gạo cho đám bần dân. Nhân dịp này, Quốc Chúa còn chịu trai giới suốt một tháng trời tại vườn Côn Gia. Tiếng đồn về công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự cùng tầm quan trọng của lễ khánh thành được lan truyền xa rộng nên các phiên hầu cũng nao nức đổ về, nhất là Phiên vương Chiêm Thành là Kế Bà Tử còn đem cả con cái, tướng tá, băng ngàn, vượt suối xa dâng tấc thành 19 .
Công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự dưới thời Minh Vương Nguyễn Phước Châu sở dĩ đạt tới cái tầm quan trọng như vậy, ngoài những lý do đã nói, còn có một lý do khác nữa bắt nguồn từ việc thiên di trị sở. Vào năm 1712, mặc dù đã có cái bề thế và khí tượng của một thủ phủ và tuy đã hội đủ những yếu tố giai thắng về địa lý, Phú Xuân vẫn không giữ vững được cái địa vị trọng yếu mà Nghĩa Vương Nguyễn Phước Trăn đã dành cho nó. Đến đây, nó phải nhường cái vinh dự này lại cho xã Bát Vọng ở huyện Quảng Điền. Dời trị sở, nhưng vốn sùng mộ giáo lý Phật đà, lại nặng tình với ngôi cổ tự ở gò Hà Khê, vị chân chủ từng mang pháp danh là Hưng Long 20 và thường xưng là“Quốc chủ Thiên Túng đạo nhân” 21 đã chọn cảnh Thiền quan có nhiều liên hệ màu nhiệm với đại nghiệp của dòng họ mình làm nơi di dưỡng tinh thần, tìm những giây phút siêu thoát trong hương thơm, sắc đẹp của án Phật, hoa Đàm cùng cái cảnh trí thơ mộng nơi này. Việc xây cất điếu đài chứng tỏ Quốc Chúa thường lui tới Thiên Mụ tự 22 . Và, vườn Côn Gia nhờ đó mà có được cái cảnh sắc huy hoàng, tráng lệ để, sau này, khi lâm vào cái thế điêu tàn, đổ nát theo với cảnh ngửa nghiêng của đại nghiệp họ Nguyễn – vì cái họa xâm tính của quân Trịnh và quân Tây Sơn – đã khiến cho du khách, mỗi lúc viếng thăm cảnh cũ, đối cảnh sinh tình, mối sầu hoài càng thêm trĩu nặng, và, có người vì đã tiếc rẻ cái bề thế xưa mà phải buồn than:
Nguyễn gia thất thế bài không tại,
Tăng xá thiên gian ngõa bán linh.
(Bài vị của bảy đời chúa Nguyễn còn đấy, ngói của ngàn gian tăng xá đã trụt hết nửa rồi.) 23
Nhưng đó là chuyện về sau. Cái họa suy vong còn những trên nửa thế kỷ về sau mới xảy ra cho dòng họ chân chủ phương Nam. Còn ngay lúc bấy giờ, thì cái thế thăng hoa của Thiên Mụ tự vẫn còn nương theo vận hội long hưng của nghiệp chúa, như diều nương theo gió.

Sau ngày hoàn tất công cuộc đại trùng tu, Quốc Chúa còn trang bị cho tự viện của chùa một số có tới nghìn bộ kinh Đại tạng và Luật, Luận mua từ Trung Quốc đưa về. Quốc Chúa lại cho dựng một tấm thạch bi cao những sáu thước rưỡi, rộng ba thước, đặt trên lưng một linh quy bằng cẩm thạch dài năm thước, rộng ba thước rưỡi, cao một thước bảy tấc năm phân 24 . Nội dung bi văn đã nói lên cái chủ ý của Quốc Chúa, vị chân chủ “muốn lấy nghiệp tu để gầy nghiệp bá” và “… coi đời sống vương giả ở nơi cung điện không thoải mái bằng đời sống ở chốn thiền quan, ngựa thắng yên cương nạm vàng, dát ngọc không quý bằng một chiếc gậy kim cang, cẩm y, hoàng bào rực rỡ thường làm chóa mắt thế nhân không giá trị bằng chiếc áo cà sa, và những kho ngọc vàng, châu báu xét cho cùng chỉ toàn là những trò hư ảo mà thôi 25 ”, nhân đó mà phát khởi cái ý nguyện xây cất một ngôi Phật tự, rồi do cái ý nguyện này, đã đi tới quyết định công cuộc đại trùng tu Thiên Mụ tự vốn đã tọa lạc giữa một đồng ruộng đẹp tợ thảm thêu lại được bọc quanh bởi những dãy quần sơn xinh như rồng bay, phượng múa. 26——————————–
| 1 | Hải ngoại kỷ sự quyển III, tr.199-200. (TG) |
| 2 | Hải ngoại kỷ sự quyển III, tr.199-200. (TG) |
| 3 | Dịch: Thừng vàng mở đường giác (câu thơ trong bài Xuân nhật qui sơn ký Mạnh Hạo Nhiên của Lý Bạch) |
| 4 | Hải ngoại kỷ sự phần Khảo cứu của Gs. Trần Kinh Hòa, tr.261-262. (TG) |
| 5 | Đ.N.N.T.C.. Thừa Thiên phủ (tập trung), mục Nhân vật Tôn thất bản triều: Tôn Thất Hiệp, tr.18. (TG) |
| 6 | Đại Nam thực lục tiền biên quyển VII, 22a, 23a, 26b, trích dẫn trong phần chú thích Số 15, ở phần Khảo cứu“Hải ngoại kỷ sự”, tr.277. (TG) |
| 7 | Theo Gs. Trần Kinh Hòa, trong chú thích số 14, ở phần khảo cứu “Hải ngoại kỷ sự” thì Thực lục tiền biên quyển 7 “Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế thực lục thượng” có chép: Hiển Tôn sinh vào năm Khương Hy thứ 14, con trưởng của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế. Vậy Thiều Dương hầu cũng như Lệ Truyền hầu có thể là con một bà vợ thứ của Anh Tôn. (TG) |
| 8 | Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, tr.200. (TG) |
| 9 | Chùa Sùng Hóa ở làng Triêm Đức, quận Phú Vang, Thừa Thiên, được trùng tu vào năm Nhâm Dần (1662), dưới thời Thái Tôn. Chùa Bảo Châu ở làng Trà Kiệu huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam được xây cất vào năm Đinh Tỵ (1607). Chùa Kính Thiên ở làng Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình – được đổi tên là chùa Hoằng Phước vào năm Minh Mạng thứ hai nhân dịp thánh giá Bắc tuần – được xây cất vào năm Kỷ Dậu (1609), có cỗ chuông nặng tới 1.000 cân (Généalogiedes Nguyễn avant Gia Long B.A.V.H. 1920-Đ.N.N.T.C.. – Thừa Thiên phủ, mục Tự quán: chùa Sùng Hóa, tr.90. -Đ.N.N.T.C.. Tỉnh Quảng Nam, mục Tự quán : chùa Bảo Châu, tr.58 – Đ.N.N.T.C.. Tỉnh Quảng Bình, mục Động, chùa: chùa Hoằng Phước, tr.150-153. (TG) |
| 10 | Lục Chân Lạp: Trong thế kỷ VIII, Chân Lạp bị chia thành 2 quốc gia, Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. |
| 11 | Le Việt Nam: Histoire et civilisation par Lê Thành Khôi (L’Euvre des Nguyễn dans le Sud – La Poussée vers le Sud), p.267-268. (TG) |
| 12 | “Thành trì chí của Trịnh Hoài Đức”, Gs. Trần Kinh Hòa dịch thuật, Tạp chí Đại học số 24, tr.54-55. |
| 13 | “Thành trì chí của Trịnh Hoài Đức”, Gs. Trần Kinh Hòa dịch thuật, Tạp chí Đại học số 24, tr.54-55. |
| 14 | Tả trà viên là chức danh, tương đương Tả Thừa tướng chứ không phải tên người, nhiều sách nhầm Tả Trà Viên và Kế Bà Tử là 2 người. |
| 15 | Việt sử: xứ Đàng Trong của Gs. Phan Khoang (Hiển tôn Nguyễn Phước Châu (1691-1725)). (TG) |
| 16 | Bản in cũ đề là năm 1707. Thực ra sự kiện Tống Phước Thiệu nổi loạn xảy ra vào năm 1709, tức là năm Kỷ Sửu. Chúng tôi sửa lại cho chính xác. |
| 17 | Việt sử: xứ Đàng Trong của Gs. Phan Khoang (Hiển tôn Nguyễn Phước Châu (1691-1725)). (TG) |
| 18 | Đại Nam thực lục tiền biên (trích dẫn trong La Pagode Thiên Mẫu: Historique, B.A.V.H. 1915). (TG) |
| 19 | Việt sử: xứ Đàng Trong của Gs. Phan Khoang (Hiển Tôn Nguyễn Phước Châu (1691-1725), tr.224). (TG) |
| 20 | Les Stèles de Minh Vương (trong bài La Pagode Thiên Mẫu par A.Bonhomme, B.A.V.H. No 4, Octo. Déc. 1915, page 429. (TG) |
| 21 | Đ.N.N.T.C.. – Thừa Thiên phủ (tập thượng), mục Tự quán: chùa Quốc Ân, tr.87). (TG) |
| 22 | Đại Nam thực lục tiền biên – Passages relatifs aux réparations (trích dẫn trong La Pagode Thiên Mẫu: Historique, B.A.V.H., 1915). |
| 23 | Tương truyền hai câu thơ này của quan Đốc đồng Hoan Châu Bùi Huy Bích thường cùng quan Đốc thị Trương Đang Quỷ đi thuyền lên viếng Thiên Mụ tự, vào thời Cảnh Hưng, nhân dịp phụng chỉ vào Huế tuyên dụ (Tang thương ngẫu lục, Phổ thông bán nguyệt san số 6 tháng Chạp năm 1913, tr.150, 152). (TG) |
| 24 | Thước đây tương đương với 0,40m. Vậy bia cao 2,6m; rộng 1,2m; Linh Quy dài 2m; rộng 1,4m; dày 0,7m. Bia này hiện đang còn ở phía trước tháp Phước Duyên về phía tay mặt. (TG) |
| 25 | Les Stèles: La stèle de Minh Vương (La Pagode Thiên Mẫu), B.A.V.H 1915. (TG) |
| 26 | Les Stèles: La stèle de Minh Vương (La Pagode Thiên Mẫu), B.A.V.H 1915. (TG) |
(Nguồn : vietmessenger.com)
Thảo luận
Không có bình luận