(Trích từ: Mộng Kinh Sư, Phan Du, Cảo Thơm xuất bản, 1971)

Thực vậy, khi Nhân Lộc hầu Nguyễn Phước Lan hay Công Thượng vương, tục gọi là Chúa Thượng kế vị Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng đế – thọ bảy mươi ba tuổi, ở ngôi hai mươi năm – thì vùng Thuận Quảng đang là thời kỳ hưng thịnh, phú túc, trăm họ vui cảnh ấm no, thanh bình.
Thừa kế đại nghiệp vào năm Ất Hợi (1635), qua năm sau, Nhân Lộc hầu liền cho dời phủ từ Phước An đến làng Kim Long thuộc huyện Hương Trà.
Kim Long nằm trên tả ngạn sông Hương, cách đồi Hà Khê và Thiên Mụ tự không xa. Địa thế Kim Long, so với xã Phước An, không những rộng rãi, khoáng đãng hơn nhiều, núi sông lại thanh tú, cảnh trí thanh nhã, thơ mộng đẹp như tranh vẽ. Trị sở chúa Nguyễn, với chuyến thiên di này, đã xích lại khá gần cái vị trí lý tưởng của Kinh sư sau này.
Phủ trị tuy đóng tại Kim Long – gần chợ hiện nay – nhưng cảnh sắc, phong khí vui vẻ thì bao trùm cả một địa bàn gồm các xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Xuân Hòa và An Ninh, vì lẽ, cùng theo về với chúa, ngoài đám triều thần đông đảo, còn có trên năm sáu nghìn binh sĩ cùng gia đình, thân thuộc 1 . Vào thời đó, tại địa phương, ở tả ngạn cũng như hữu ngạn sông Hương và sông Kim Long – nay đã bị bồi lấp – vốn đã sẵn có những thôn hoa rậm rạp, đông đảo dân cư, nên sau khi phủ chúa được dời đến, Kim Long càng trở nên trù mật.
Đường, các, dinh thự lần lượt được xây cất. Lầu son, gác đỏ đua nhau mọc lên bên trong la thành của phủ chúa cũng như trong các khu vườn sầm uất của các thượng quan. Vào thời bấy giờ, tuy mái cung, mái điện, dinh thự, đài, các chưa rạng tỏa màu ngói hoàng lưu ly, thanh lưu ly – phần nhiều lợp toàn bằng tranh – nhưng cây gỗ quý giá, lối chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo, quy mô kiến trúc cũng đã đủ làm cho những du khách, từ viễn xứ đổ về, phải thán phục vì cái vẻ trang nhã, ngoạn mục 2 . Các loại thảo mộc hữu danh cùng các thứ kỳ hoa trong xứ cũng gặp được vận hội tốt để quy tụ về nơi thủ phủ. Cung điện, dinh thự rợp phủ bóng mát lệ chi, long nhãn, càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, kín đáo với những hàng hoàng mộc bút, trắc bách diệp, hòe, phượng, lê, đào chầu hầu bên cửa, trong sân, với sức khoe tươi, phô thắm của những cội hải đường, ngọc lan, tường vi, nguyệt quế cùng các giống cúc, lan đủ loại.
Thêm vào đó, mã xưởng, tập tượng trường cũng được dời về, binh xá của quân sĩ được xây cất, võ khố được thiết lập, núi đất cao trên ba mươi tám trượng, rộng những một trăm năm chục trượng được đắp lên tại bến đò Thanh Phước, để hàng năm, vào tháng Bảy, tổ chức những cuộc thao diễn phép bơi thuyền, bắn súng 3 . Từ năm 1647, những khoa thi Chính Đồ và Hoa Văn 4 được mở để thu hút nhân tài trong cõi. Vào những dịp khánh tiết, bóng binh sĩ áo đỏ, nón vàng, súng hỏa mai sáng loáng, xen lẫn bóng những thớt thị tượng cao lớn, mang bành vàng, thắt là lụa, và những chiếc hồng thuyền đỏ thắm màu sơn, những chiếc thuyền sơn son thếp vàng lộng lẫy – tỏa rạng ánh vinh quang của những chiến thắng lẫy lừng trên mặt bể cả – thường biểu diễn trên mặt sông Hương, càng làm tôn trưởng thêm cái phong độ đô phủ của Kim Long.
Chốn đô hội này còn được điểm chuyết thêm cái sắc thái hoa lệ, phong thói xa hoa, do một ngọn gió phóng lãng thổi lên từ phố Thanh Hà. Ở Đàng Trong, các chúa đối với thương khách ngoại quốc, nhất là đối với người của thiên triều, không áp dụng một chính sách ly cách nghiêm ngặt như ở Đàng Ngoài. Ngay từ thời Tiên Chúa, các Hoa thương đã được phép lui tới mua bán tại vùng phụ cận Thủ phủ. Khi trị sở của chúa Nguyễn còn đóng lại Trà Bát, thì Dinh Cát là một cảng khẩu trọng yếu. Nhưng khi trị sở đã dời về Phước An, và sau đó thiên di đến Kim Long, thì thuyền buôn của Trung Hoa lại theo cửa Thuận An, tiến vào cập bến Thanh Hà, vì theo lối này, có tiện cho việc mua bán hơn là chạy vào sông Quảng Trị như xưa. Và sau khi dời phủ về Kim Long, Chúa Thượng đã cho phép tiên hiền trong làng Minh Hương kiến thiết một khu chợ tại nơi giáp giới hai xã Thanh Hà và Địa Linh 5 . Mặc dù những thương thuyền từ Trung Quốc chạy qua ít khi ghé thẳng nơi này, nhưng phố Thanh Hà, thuộc tỉnh Thừa Thiên, vốn nằm ngay trên một quãng sông Hương sâu rộng, rất tiện cho các thuyền lớn ghé đậu, phải là một cảng khẩu địa phương thuận lợi cho việc chuyển vận, phân tiêu hàng hóa từ Hội An đưa ra và là một cửa ngõ lý tưởng của Kim Long đối với ngoại thương 6 . Ngoài các phẩm vật đưa sang từ Trung Quốc như tơ sống, đồ sứ, thuốc bắc, giấy tiền, hương đèn, bút chỉ, sách vở, hàng vóc, bánh kẹo, v.v… đám Hoa thương còn buôn cả nồi đồng, mâm đồng của các tàu Tây cập bến Hội An về đây bán lại. Các loại xa xỉ phẩm cũng như sách vở được người dân Kim Long, nhất là hạng quyền quý, tranh nhau mua sắm. Thường dân nơi này, vốn đã từng sống trong cảnh làng chợ đông vui áo cơm dư dật, cũng nhiễm lần phong thói xa hoa.
Lẽ tự nhiên đời sống trong phủ chúa, thuở ấy, cũng rạng vẻ kiêu sa, hoa gấm, với những cung cách, nghi phục sặc mùi vương giả. Khách viễn phương, có dịp viếng thăm“Kehue” 7 thường được đẹp mắt hiếu kỳ vì những y phục rực rỡ, cùng cái văn vẻ, sang trọng của lối trang hoàng bày biện trong phủ chúa cũng như trong các tư dinh của đám thượng quan. Nhã nhạc đã trỗi dậy và những ca nhi, vũ nữ đã thường được xuất hiện trong các buổi yến ẩm tràn ngập hào soạn, dưới mái vương phủ. Nghi vệ được chăm chút càng làm tăng thêm phong thể trọng vọng của bậc chân chủ. Mỗi lúc chúa ngự ra ngoài, trên hai nghìn cận vệ giáo gươm san sát, tàn lọng, cờ xí rợp đất, tạo thành cái thế tiền hô, hậu ủng lẫm liệt, oai phong. Và chỉ để xem mặt bốn nữ tu sĩ người Tây Dương, tình cờ bị trôi giạt vào bờ cõi bởi một cơn sóng gió bất kỳ, Công Thượng vương đã dùng đến bốn nghìn lính dàn hầu cùng hai đội cận vệ mang gươm bịt bạc, và đã mở tiệc linh đình khoản đãi, có vũ nữ múa hát giúp vui. 8
Nếp sống vương giả, nghi thể nghiêm lệ kể trên quả cũng thích nghi và phù hợp với một thủ phủ đang vươn lên trong cảnh thịnh trị do tài kinh bang của một vị chúa hào hoa, đa tình, đa cảm nhưng cũng chẳng thiếu hùng nghị và dõng lược.
Nhưng cũng chính giữa cuộc sống phồn vinh, sung dật ấy, Công Thượng vương đã hai lần suýt bị nghiêng ngửa cơ đồ, sự nghiệp, một lần vì sự phản nghịch của một người em và một lần vì cái họa nữ sắc.
Em Thượng Vương là Nguyễn Phước Anh, trấn thủ Quảng Nam, từ lâu đã có ý giành ngôi thế tử. Ngay từ dưới thời Hy Tôn, Phước Anh đã nuôi những mấy trăm dõng sĩ trong nhà và đã hơn một lần âm mưu liên kết với họ Trịnh, nhưng việc bất thành. Khi Hy Tôn mất, Công Thượng vương được kế thừa đại nghiệp lại có ý định thăng Nguyễn Phước Tuyên làm Trấn thủ Quảng Nam. Phước Anh rất đỗi bất bình. Thay vì lo về chịu tang cha, Anh lại dự định cử binh mưu đoạt ngôi lớn. Trong đám tay chân dưới trướng của Anh thuở đó, có viên Ký lục 9 họ Phạm, vốn là người thân tín của Thượng Vương đưa vào và được giao phó nhiệm vụ theo dõi mọi hành động khả nghi của người em từng đã manh tâm phản nghịch. Ký lục Phạm giả vờ tán thành âm mưu cướp đoạt ngôi lớn, lại đề nghị cùng Anh việc đắp lũy Cu Đê từ núi đến bể phòng chuyện cố thủ và dàn thủy quân ở cửa Hàn để chống cự nếu quân Chúa kéo vào. Bày mưu xong, Ký lục Phạm liền cho người lẻn về Thượng đô cấp báo với Thượng Vương. Được tin, Công Thượng vương rất đỗi phân vân bối rối. Vốn nặng tình cốt nhục hơn ngôi cao, Chúa đã cho triệu một số trọng thần họp mặt và đã khóc mà phán bảo:
“Phải chăng vì ta còn kém đức nên mới có chuyện đáng tiếc xảy ra. Ý ta muốn nhường ngôi cho bào đệ hầu tránh nỗi đau lòng vì cảnh cốt nhục tương tàn ngay trong cơn tang khó.”
Nhưng đám cận thần nhất quyết không tán thành ý định của Chúa và xin Chúa phải dẹp bỏ tình riêng vì không thể trao cả đại nghiệp vào tay một người vô đạo như Nguyễn Phước Anh. Chưởng cơ Nguyễn Phước Tuyên liền được lệnh đem quân dẹp loạn. Cai đội bộ binh là Dương Sơn đi đường tắt, đánh thẳng vào dinh trấn Quảng Nam, bắt được quyển sổ “đồng tâm hướng thuận” ghi rõ họ tên những người trong đảng của Anh. Nguyễn Phước Anh chạy về ngả cửa bể Đại Chiêm, nhưng sau đó Anh cùng những người có tên trong sổ đồng tâm đều bị giết sạch 10 .
Cái họa phản nghịch dẹp yên. Nhưng sau đó chẳng bao lâu, Công Thượng vương lại vướng vào một cái họa còn nguy hiểm hơn nhiều cho đại nghiệp. Cái họa nữ sắc.
Trong giới nữ lưu được cung dưỡng nơi gác gấm ở Thượng đô thuở đó, xuất hiện một áng đào kiểm cực kỳ diễm lệ. Đó là nàng Tống thị, con gái của Tống Phước Thông. Cha Tống thị từng giữ chức Cai cơ 11 vào thời kỳ con rể là công tử Nguyễn Phước Kỳ còn làm Trấn thủ Quảng Nam. Sau khi rể quý tạ thế, Phước Thông buồn rầu, thất vọng, đưa cả gia quyến trở về miền Bắc, Tống thị không chịu theo cha trên đường hồi hương. Góa chồng và đã có ba con, nhưng vốn lẳng lơ, dâm dật, quen nết gió trăng nên Tống thị vẫn háo hức chuyện mặc xiêm áo của chồng để làm đẹp với người. Đã sẵn cái vốn hương trời, sắc nước, cái tài đưa tình, gợi cảm bằng lối ăn nói rất mực duyên dáng, khôn ngoan, Tống thị còn có một phương thuật chinh phục tình yêu rất nhiệm mầu kỳ lạ. Người biết chuyện ở Thượng đô thuở ấy gọi nàng là một “dâm phụ có xâu chuỗi trăm hoa”. Thực vậy, với xâu chuỗi kết bằng trăm thứ hoa, Tống thị đã làm cho biết bao người trong giới cao môn, quyền quý phải say mê đắm đuối đến quên cả đạo nghĩa, luân thường, và coi nhẹ cả thanh danh, sự nghiệp. Trong số này, trước tiên phải kể đến Công Thượng vương Nguyễn Phước Lan.
Thực vậy, Công Thượng vương cũng đã phải vướng vào cái mê võng nữ sắc khi tiếp nhận xâu chuỗi trăm hoa của Tống thị, người chị dâu, dâng tặng. Hương hoa hay nhan sắc của nàng họ Tống đã khiến cho Thượng Vương mê say đắm đuối một người góa phụ đến quên cả thị phi và nghiệp lớn? Cứ theo lời đồn đãi trong dân gian, xâu chuỗi trâm hoa của nàng họ Tống quả có một thứ ma lực rất là quái dị. Vì ngay đến những người chưa từng giáp mặt nàng hay cả những người có ác cảm với nàng, nhưng đã ngửi phải hương thơm của xâu chuỗi trăm hoa do tay nàng kết thành thì tức khắc đâm ra đắm say, mê mẩn, ngày đêm tơ tưởng đến nàng, khát khao cái diễm phúc cùng nàng vui vầy ân ái, hướng vọng về nàng như hoa hướng dương tìm bóng mặt trời, như sắt nhớ nam châm, chẳng hạn như trường hợp của Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung sẽ nói đến sau này.
Công Thượng vương ngày càng say mê Tống thị và kể từ năm Kỷ Mão (1639), Tống thị được Chúa cho tự do ra vào vương phủ, được sủng ái, quý trọng và tin cậy đến độ nàng muốn gì Chúa cũng chiều ý, nói gì Chúa cũng nhất nhất nghe theo. Được thể, Tống thị càng gièm sảm đủ điều những kẻ nàng thù ghét, những cận thần dám can gián Chúa, những người có thái độ khinh khi, miệt thị hay không chịu đồng tình, đồng lõa với nàng trong các mưu toan bất chính, ám muội. Về phần Công Thượng vương, vì quá đắm say, mê luyến Tống thị nên ngày càng thay đổi tính tình. Con người hào hoa khiêm cung, hòa nhã ấy chẳng mấy chốc đã trở thành một bạo Chúa nóng nảy, hiếu sát, đam mê thú cung dưỡng bằng thanh sắc, hoang dâm xa xỉ, đắm đuối triền miên trong hoan lạc bên cạnh Tống thị, bỏ bê quốc sự, coi nhẹ xã tắc, sơn hà. Lợi dụng cái thế được sủng ái, Tống thị không những chỉ tìm cách làm giàu bằng sự hối lộ của những người ra vào cầu cạnh, mà còn thẳng tay bóc lột đám lê dân nên chẳng mấy chốc gia sản của nàng đã đứng vào hàng đầu trong giới hào phú toàn cõi. Tiền bạc như nước, vàng ngọc châu báu chất đầy rương hòm, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Lũ nạn nhân nếu có kêu rên, than thở, thì chỉ một lời nói của Tống thị, đã bị bọn quân lính, theo lệnh Chúa, bắt bớ giam cầm hoặc đánh đập đến chết, ném thây giữa chợ. Số người chết oan vì Tống thị ngày càng nhiều, nỗi oán hận sôi dậy trong lòng chúng dân tuy phải nơm nớp run sợ, im hơi nín tiếng trước sự đe dọa của những vụ khủng bố kinh hoàng và những cực hình tàn ác. Những lời can gián của triều thần chẳng những không có hiệu lực chút nào mà còn gây thêm cảnh sấm sét, châm ngòi thêm cho những cơn thịnh nộ lôi đình, rước họa cho hạng người trung ngôn. Ngay cả Tổng trấn Tường Quận công Nguyễn Phước Khuê, người từng được Thụy Quận công, trước khi lâm chung, ủy thác mọi việc giải quyết chính sự để giúp Thế tử Nguyễn Phước Lan – còn kém lịch duyệt – và đã từng có công dẹp bọn phản nghịch, cũng chịu bất lực trong sự khuyên lơn, can gián. Thượng Vương, chẳng những bất chấp sự dị nghị mà còn tiến xa hơn trong sự lỗi đạo trị quốc, an dân. Muốn chứng tỏ mối tình keo sơn, bền bỉ của mình đối với người đẹp và cái ý nguyện “trăm năm cùng huyệt”, Thượng vương dự định xây cất một lâu đài nguy nga để sau này cùng Tống thị vui hưởng tuổi già. Công trình kiến trúc đồ sộ này đòi hỏi rất nhiều nhân công, vật liệu. Do đó, lệnh còn được truyền ra cho khắp các huyện phải cung ứng đủ số thợ thiện nghệ cùng số nhân công và bắt buộc dân chúng, bất luận lớn bé, già trẻ phải lên rừng đốn gỗ, khiêng đá. Tiếng kêu ca, ta thán vang dậy khắp nơi vì nạn sưu dịch nặng nề, khắc nghiệt. Đám triều thần ai cũng căm tức Tống thị và lo thay cho nghiệp Chúa. Ngay giữa lúc ấy, thiên tai lại phát hiện như để báo trước những chuyện chẳng lành cho nghiệp lớn. Hạn hán xảy ra vào năm Tân Tỵ (1641), lúa bị khô cháy. Nạn đói hoành hành nhiều nơi, so với nạn đói năm Đinh Sửu (1637) còn trầm trọng, nguy nan bội phần.
Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung – em Công Thượng vương, con thứ tư của Hy Tôn – người có uy lớn khiến các tướng đều sợ, tính vốn nóng nảy, hung dữ, đối với binh, dân, mỗi khi nhận thấy lỗi lầm, lập tức dùng hèo sắt đánh đến toác thịt, gãy xương, lại thích nuôi chơi các loài độc cầm, ác thú, thả ra chợ cho chúng cướp cá tôm, đuổi cắn người để làm trò vui, nhưng thâm tâm vốn không phải là người xấu, nên rất bất bình trước tình trạng nheo nhóc của nhân dân và sự lộng hành của Tống thị, đã gọi tên thị ra để mắng nhiếc và đe dọa:
“Đã đến lúc ta phải cho đám ác thú của ta nhai xương, xé xác con mẹ dâm phụ họ Tống để trả thù, rửa hận cho sĩ thứ, ta mới thỏa lòng.”
Lời đe dọa này lọt tai Tống thị, nàng sợ hãi vô cùng, và chính nó là tạo đoan cho một âm mưu kinh khủng của nàng về sau.
Nhưng gỡ được cái họa nữ sắc là cái công của Viên Hiền hầu Nội tán họ Phạm 12 . Vốn là người cương trực, tiết khái, không thể coi nhẹ cái trách nhiệm của một trang lương đống trước những đe dọa cho vận mệnh xã tắc mà Thiên cơ đã mặc khải cũng như trước cảnh điêu linh khốn đốn của bách tính. Nội tán họ Phạm, một sớm, đã vào thẳng vương phủ tâu bày:
“Thân chúa, xin chúa thượng hãy chém đầu hạ thần nếu chúa thượng không còn muốn nghe những lời trung ngôn. Kẻ bầy tôi này không thể sống mà chịu tiếng bất trung và chịu nhắm mắt, ngậm tăm trước những chuyện ngang trái đưa tới nhiều nguy cơ cho đại nghiệp mà các tiên vương đã dày công tạo dựng.”
Thái độ quyết liệt của Viên Hiền hầu có gì khiến Thượng Vương sửng sốt, trong lúc Viên Hiền hầu tiếp tục tâu bày: “Kinh nghiệm cổ kim về điềm tối ư kiêng kỵ cho đạo trị quốc là việc xây cung, đắp nền bằng hờn oán của nhân dân, chất chứa kho lẫm bằng máu mỡ của nhân dân. Vả lại, phép làm chính trị phải tôn trọng cương thường. Nay chúa thượng vì lòng nịch ái 13 một phụ nhân dâm loạn mà coi nhẹ cương thường nhân luân, buông lỏng giềng mối, gây cảnh điêu linh khốn khổ cho sĩ thứ ngay cả giữa lúc thiên tai, hạn hán đang dấy khởi, lan tràn, thì nhất định cái họa suy vong không thể nào tránh thoát. Là kẻ bầy tôi, trong tình trạng này, nếu không đóng trọn vai trò “tránh thần 14 ” để cứu vãn được tình thế, thì chỉ còn có cái chết mới bảo toàn được khí tiết và tránh được sự lỗi đạo ái quốc, trung quân.”
Nghe giọng nói và ngắm thần sắc cùng thái độ của Viên Hiền hầu, Thượng Vương biết rõ là người bầy tôi trung thực này đã có quyết định dứt khoát, nên khi thấy Hầu vừa rút gươm ra khỏi vỏ, Thượng Vương đã vội vàng bước xuống, giật vội thanh gươm, phán bảo:
“Viên Hiền hầu chớ khá nóng nảy. Chính Hầu đã thức tỉnh ta rồi.”
Và quả đúng như vậy. Tuy đắm lụy nữ sắc, Thượng Vương vẫn còn mang sẵn trong dòng máu cái truyền thống hùng nghị để với mối xúc động tâm lý bất thần mãnh liệt – gây nên bởi cái cử chỉ can đảm, hào hùng của một người bầy tôi giàu tiết khái – vụt nhiên tỉnh ngộ và phục hồi lại được cái ý chí thắng vượt nhược điểm của mình.
Ngay sau đó, để tỏ ý phục thiện và lòng cảm mộ cái gan trung nghĩa hiếm có của Viên Hiền hầu, Thượng Vương liền hạ lệnh bãi bỏ dự án xây cất lâu đài, tổ chức gấp rút công việc chẩn tế, và cũng kể từ ngày ấy, mối tình đối với Tống thị ngày càng phai nhạt. 15
Sự kế thừa đại nghiệp tuy phải mở đầu với một biến cố chẳng lành hay việc mưu phản của em trai, thêm vào đó, cái họa nữ sắc như vừa nói, nhưng mười ba năm trị vì ở cương vị chân chủ của Công Thượng vương lại là một thời kỳ thịnh đạt, với rất nhiều thành tích vẻ vang gặt hái được về mặt ngoại an cũng như nội trị, nhờ ở sự phò tá tận lực của nhiều bậc hiền tài. Dời trị sở, kiến thiết Thủ phủ, chỉnh đốn tổ chức, mở các khoa thi để tuyển chọn nhân tài, tăng cường binh bị, thao luyện quân sĩ về kỹ thuật chiến đấu trên bộ, dưới thuyền. Nhờ đó, mà đã hơn mấy lần đẩy lui và gây thất bại nặng nề cho quân Trịnh, triệt hạ uy thế của lực lượng hải quân “chỉ biết sợ có sức mạnh của Trời” 16 , qua những chiến thắng như chiến thắng năm 1642, làm cho quân Ô Lan (tức Hòa Lan) phải thất điên, bát đảo, và thuyền trưởng Ô Lan, Van Liesvelt, phải tử trận một cách thảm thương; chiến thắng năm 1643 – một võ công oanh liệt của Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phước Tần, tại cửa Hàn – một cuộc chiến đấu oai hùng với cái cảnh “năm chục chiếc ghe Ô, ghe Chu 17 , dưới quyền chỉ huy của Thế tử, rượt đuổi vùn vụt như bay trên mặt bể cả, xông xáo vào một chiến thuyền lớn nhất trong ba chiến thuyền của địch – đang cùng hoảng hốt nhắm về hướng đông tìm đường tẩu thoát. Cả đám thủy quân gan dạ, nhảy ào lên, đẵn cột buồm, chặt bánh lái, dứt đứt dây lèo, khiến cho thuyền trưởng và thủy thủ bên địch phải kinh hoàng như đang đứng trước một đoàn âm binh từ đâu dưới thủy cung đột hiện. Túng thế, quân địch phải phá thuyền bằng thuốc súng. Đô đốc Peter Baek cùng trên hai trăm thủy thủ nát thịt, tan xương. Âm mưu cấu kết giữa quân Trịnh và quân Hà 18 tan vỡ. Trịnh Tráng, sau trên một tháng trời sốt ruột đợi chờ, phải cùng vua Lê ngậm đắng nuốt cay, lủi thủi quay về Thăng Long.” 19
Và sau cùng là chiến thắng năm Phước Thái thứ sáu 1648.
Chiến cuộc lần này xảy ra là do âm mưu xúi giục của nàng Tống thị. Sóng khuynh thành đã làm dấy khởi cảnh can qua. Nguyên từ khi bị thất sủng, Tống thị càng lo sợ về lời đe dọa của Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung, nên ngày đêm trù kế giữ mình, và để tìm cách thoát khỏi nơi hang hùm nọc rắn, Tống thị đã nghĩ đến chuyện mượn tay họ Trịnh để gây cái họa nghiêng ngửa cơ đồ cho dòng họ chân chủ phương Nam. Nàng bèn viết một bức mật thư kèm theo một xâu chuỗi trăm hoa do chính tay nàng kết thành, sai người tâm phúc mang ra cho thân phụ nàng để dâng lên chúa Trịnh. Trong thư, Tống thị khẩn thiết thỉnh cầu Trịnh Tráng sớm cất quân vào tiến đánh Thuận Hóa và nàng sẽ nguyện đem hết gia sản lớn lao của mình để lo việc quân lương. Cuộc Nam phạt thành công nàng sẽ xin về Đàng Ngoài để hầu hạ Chúa. Trịnh Tráng xem thư đã thích trí lại ngửi đến xâu hoa, tự dưng cảm thấy tâm thần xao xuyến, càng nhìn nét bút càng tơ tưởng đến mỹ nhân ở một phương trời, đâm ra thương mến, nhớ nhung và nôn nóng được sớm thấy dung nhan, vui vầy cá nước, bèn gấp rút chuẩn bị cuộc Nam chinh để làm đẹp lòng Tống thị. 20
Một phen giáp chiến, quân Nguyễn thua to. Quân Trịnh tiến đóng ở đồn Võ Xá. Nhưng rồi với đại binh của Thượng Vương đóng ở trại Toàn Thắng 21 , với sự cầm cự anh dũng của Trương Phước Phấn và con là Trương Phước Hùng để giữ vững lũy Trường Dục – lũy được mang thêm cái tên Phấn Cố Trì kể từ ngày ấy 22 , với cái khí thế nhổ núi, đạp thành của quân tiếp viện thiện chiến và một trăm thớt voi dũng mãnh, dưới quyền điều khiển tài tình của Thế tử 23 , với cái quyết tâm của các tay hổ tướng như Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn đã lật ngược thế cờ, giành phần toàn thắng, đúng như lời tiên đoán của bà lão dâng đậu Trường Xích cho Thượng Vương, khi quân lính của Chúa vừa hạ trại ở làng Trung Chỉ. 24
Chiếm Nam Bố Chính, đóng trại ở Võ Xá, hạ được Lũy Thầy, quân Trịnh đã chắc mẩm diệt tan quân Nguyễn, nhưng rồi bất ngờ lại bị đánh tan tành không còn manh giáp, bị đuổi chạy đến tận Linh Giang, Trịnh Tráng thêm một phen vỡ mộng xâm tính Thuận Quảng, và, đám tàn quân của họ Trịnh cũng thêm một lần được chiêm nghiệm thấm thía ý nghĩa của câu ca: “Nhất khả kỵ hề Động Hải Trường lũy, nhị khả kỵ hề Võ Xá nê điền“. 25 Và, cũng như chiến thắng trên sông Ái Tử xưa kia đã cống hiến cho Tiên Chúa một số binh sĩ đầu hàng đông đảo để thực hiện công cuộc khẩn hoang quanh vùng Cồn Tiên, chiến thắng 1648, cũng mang lại cho Công Thượng vương trên ba vạn binh sĩ quy hàng để thực hiện công cuộc khẩn hoang, lập ấp, trên dải đất đai chạy từ phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn đến tận Phú Yên. 26
Phủ trị Kim Long lại được dịp phô bày cảnh sắc hoa gấm để đón tiếp Công Thượng vương và đoàn quân chiến thắng. Nhưng tiếc thay, tin mừng vừa loan thì tin buồn cũng được vó ngựa truy phong mang về cấp báo. Vì trên đường khải hoàn, Công Thượng vương, tức Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng đế, đã băng hà khi thuyền đang vượt phá Tam Giang, vào ngày mồng sáu tháng Hai năm Mậu Tý (tức mười chín tháng Ba năm 1648), thọ 48 tuổi, ở ngôi được 13 năm.
Được tin buồn cấp báo, Kim Long buồn rủ băng tang.
Chúa chết vì bạo bệnh hay vì sự đầu độc do Tống thị chủ mưu để giành ngôi cho con mình? Đó là một nghi vấn được nêu ra, nhưng sử văn chưa giải đáp thỏa đáng.
| 1 | Le Hué du P.de Rhodes (Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le P.de Rhodes). L. Cadière des Missions Etrangères de Paris, B.A.V.H. 1922, p.231-249. (TG) |
| 2 | Le Hué du P.de Rhodes (Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le P.de Rhodes). L. Cadière des Missions Etrangères de Paris, B.A.V.H. 1922, p.231-249. (TG) |
| 3 | Đ.N.N.T.C.. – Thừa Thiên phủ (tập thượng), mục Tân độ: Bến đò Thanh Phước, tr.107, 108. (TG) |
| 4 | Chính Đồ, Hoa Văn: Chính Đồ là khoa thi tuyển người làm quan, Hoa Văn là khoa thi tuyển người làm lại. |
| 5 | Theo “Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên” của Gs. Trần Kinh Hòa, Tạp chí Đại Học, số 21 tháng 7, 1961, tr.98-101. (TG) |
| 6 | Theo “Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên” của Gs. Trần Kinh Hòa, Tạp chí Đại Học, số 21 tháng 7, 1961, tr.98-101. (TG) |
| 7 | Chỗ chúa Nguyễn ở vào thời này thường được người Tây dương gọi là “Kehue” (Theo Voyages et Missions du P. de Rhodes, trích dẫn trong “Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le P. de Rhodes” par L. Cadière B.A.V.H. 1922, p.241, 249) (TG) |
| 8 | Theo Voyages et Missions du P. de Rhodes, trích dẫn trong “Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le P. de Rhodes” par L. Cadière B.A.V.H. 1922, p.241, 249. |
| 9 | Ký lục: Chức quan chánh tam phẩm, coi việc Bộ Lại ở các trấn. |
| 10 | “Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí tân soạn” của Nguyễn Khoa Chiêm (trích dẫn trong“Việt sử: xứ Đàng Trong” của Gs. Phan Khoang). |
| 11 | Cai cơ: Chức võ quan cao cấp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chỉ huy một cơ binh dưới Chưởng cơ. |
| 12 | Chính xác phải là Vân Hiên hầu, ông tên là Phạm Quang Hựu, chính là Ký lục Phạm nhắc đến trong sự việc tạo phản của Nguyễn Phước Anh đoạn trên. Ông là mưu thần thân cận số một của Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan. Nội tán là chức quan lớn, phụ trách việc tham mưu cho Chúa. |
| 13 | Nịch ái: Yêu đến mức say mê. |
| 14 | Tránh thần: Tránh nghĩa là can gián, tránh thần nghĩa là bề tôi lo việc can gián. |
| 15 | “Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí tân soạn” của Nguyễn Khoa chiêm (trích dẫn trong “Việt sử: xứ Đàng Trong” của Gs. Phan Khoang). |
| 16 | “Thuyền Hòa Lan chỉ sợ có sức mạnh của Thượng Đế mà thôi”, đó là câu trả lời của một người Hòa Lan từng bị bão tố đưa giạt vào trong xứ và được sung vào quân đội của Chúa Nguyễn, khi Chúa hỏi có nên cho chiến thuyền đuổi đánh các tàu Hòa Lan qua giúp Chúa Trịnh hay không? (TG) |
| 17 | Đàng Trong, chiến thuyền đều gọi là ghe, sơn đen gọi là ghe Ô, sơn đỏ gọi là ghe Chu. |
| 18 | Tức quân Hà Lan. |
| 19 | Việt Nam Pháp thuộc sử (1862-1945) của Gs. Phan Khoang (Người Âu châu đến buôn bán ở V.N., tr.20) – Đại Nam thực lục tiền biên (trích dẫn trong bài“Xã hội V.N. trong con mắt của Đắc Lộ” của ông Bửu Kế, tạp chí Đại học số 19, tháng 2, 1961, tr.61) – Le V.N. Histoire et civilisation (Sécession du Nord et du Sud, par Lê Thành Khôi). (TG) |
| 20 | Theo “Thực lục tiền biên” và “Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí tân soạn”, (trích dẫn trong“Việt sử: xứ Đàng Trong” của Gs. Phan Khoang). (TG) |
| 21 | Đ.N.N.T.C.. – Tỉnh Quảng Trị (Cổ tích: Phủ cũ Toàn Thắng), tr.48. (TG) |
| 22 | 3. Đ.N.N.T.C.. – Thừa Thiên phủ (tập trung) mục Nhân vật bản triều: Trương Phúc Phấn, tr.35, Đ.N.N.T.C. tỉnh Quảng Bình (Cổ tích: Lũy Trường Dục), tr.142. (TG) |
| 23 | Le V.N. Histoire et civilisation: Sécesssion du Nord et du Sud – Les Nguyễn au gouvernement du Thuận Quảng. (TG) |
| 24 | Khi Thần Tôn đem đại binh đóng trại ở xã Trung Chi, có một bà lão đến dâng đậu Trường Xích, Chúa hỏi: “Quân ta có thể thắng được không?” Bà lão đáp: “Mười phần toàn thắng”. |
| 25 | Khi quân Trịnh đến xâm tính, Đại tướng Nguyễn Hữu Tiến đóng binh ở Võ Xá tiếp ứng cùng dinh Động Hải. Phía đông dinh này toàn là ruộng nương bùn lầy rất sâu, quân Trịnh trước sức tấn công của quân Nguyễn thường bị sa lầy tan vỡ, nên có câu ca này. Dịch nghĩa: “Một điều đáng sợ là lũy dài Động Hải, hai điều đáng sợ là ruộng lầy Võ Xá.” (Theo Đ.N.N.T.C.. tỉnh Quảng Bình, mục Cổ tích: Dinh cũ Võ Xá, tr.143). (TG) |
| 26 | Généalogie des Nguyễn avant Gia Long (quatrième généalogie: Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng đế), p.326, 327, B.A.V.H. 1920. |
(Nguồn : vietmessenger.com)


Thảo luận
Không có bình luận