Kể từ khi Nguyễn Vương ban bố niên hiệu Gia Long vào năm 1802, chính thức lập ra triều Nguyễn, cho đến khi vua cuối cùng là Bảo Đại, thoái vị vào tháng 8 năm 1945, thì Nhà Nguyễn đã trị vì Việt Nam 143 năm, trải qua 13 đời vua, trong đó , các vua Thiệu Trị (1841-1847), Dục Đức (1883), Hiệp Hòa (1883) và Kiến Phước (1883-1884) không có hình ảnh lưu lại (gần đây, trên internet có phổ biến một loạt chân dung các vua Nguyển vẽ bằng màu, rất đẹp, không rõ nhà họa sĩ căn cứ vào đâu để vẽ chân dung các vua vừa nói).
Trong bài viết ở trước (tr.211), ĐÀ NẴNG, Fort de Non-Nay, và tấm ảnh đầu tiên của Việt Nam, tôi đã trình bày rằng trong phiên họp ngày 10/8/1839 của Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp, nhà khoa học Arago loan báo về sự phát minh kỹ thuật chụp ảnh của Daguerre và gọi kỹ thuật đó là daguerréotype (kỹ thuật nhiếp ảnh của Daguerre), nghĩa là lịch sử nhiếp ảnh thế giới bắt đầu từ năm 1839. Thế mà chúng ta có ảnh của vua Gia Long (1802-1819) và vua Minh Mạng (1820-1840). Điều này có nghĩa là chân dung của các vua đó đã được người ta vẽ lại, việc giống như thật hay không, không thể biết được.
Từ đời Tự Đức (1848-1883) trở đi, thì hình ảnh các vua, nếu có, rõ ràng là do máy ảnh ghi lại, dù không biết ai đã chụp các ảnh đó, vì như đã nói, kỹ thuật nhiếp ảnh bắt đầu có từ năm 1839 và bức ảnh đầu tiên của Việt Nam chụp Đồn Hai trong hệ thống phòng thủ Đà Nẵng (xem ảnh) do M. Jules Itier chụp và phổ biến.
Ông ta là một thành viên trong phái đòan đại diện cho Bộ Thương Mãi và Tài chánh Pháp, theo tàu Alcmène do Fornier du Plan chỉ huy, đến Đà Nẵng ngày 30/5/1845. Fornier có sứ mạng khẩn cấp đến Việt Nam để can thiệp giải thoát 5 giáo sĩ đang bị bắt giam tại Huế. Itier không chỉ chụp ảnh Đồn Hai mà còn các nơi khác nữa nhưng nay không tìm thấy.
Ông Tổ của ngành nhiếp ảnh Việt Nam
Ngành nghề nào của Việt Nam cũng có tôn một người nào đó được xem là có công khai sáng nghề nghiệp làm Tổ và thường hàng năm những người cùng nghề họp nhau tổ chức giổ Tổ, cúng vái linh đình, trong đó, Tổ nghề kim hoàn
là rạng rỡ nhất, thậm chí ra hải ngoại lại càng khởi sắc. Với ngành nhiếp ảnh cũng có Tổ, đó là ông Đặng Huy Trứ, mặc dầu người cầm máy ảnh ngày nay, kể cả người sống bằng nghề nhiếp ảnh, có khi không biết đến ông là ai.
Đặng Huy Trứ (1825-1874) người làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân khoa bảng, làm quan dưới triều Tự Đức. Sách Đại Nam Thực lục (bản dịch,tập VII) đọc là Đặng Huy Trước. Ông được sau này xem là một trong những nhà nho tiến bộ, có tinh thần cải cách, đổi mới, của nửa sau thế kỷ XIX.
Sau 16 năm công vụ, đi từ những chức quan nhỏ ở địa phương cho đến khi được về Kinh, ông đã lên chức Ngự sử tại Đô Sát Viện vào năm 1863. Năm 1864, làm Bố chánh Quảng Nam. Năm 1866, về làm Biện lý Bộ Hộ, ông đề nghị
lập ty Bình Chuẩn, là cơ quan mậu dịch của nhà nước. Ông nói : “Việc kinh doanh buôn bán, dẫu là nghề mạt, nhưng về ích nước lợi dân thì là việc lớn của triều đình. Trong đó, tiết mục nhiều lắm, phải nên am hiểu tình hình thi hành ở các địa phương và hết thảy con đường cốt yếu đi lại mới có thể kiến nghị , đem ra để thi hành được.” (Thực lục VII, tr.997)
Vua giao cho ông xem xét để làm và phong ông chức Bình Chuẩn sứ nhưng đến cuối năm năm 1867 thì bãi bỏ, cùng lúc với tổ chức Dinh điền sứ ở Bắc kỳ.
Do việc thiếu tiền nhà nước khi giữ chức Bình Chuẩn sứ, ông bị giáng xuống Hàn Lâm Viện trước tác và sung làm Bang biện quân vụ hai tỉnh Bắc Ninh-Thái Nguyên (Thực lục IX, tr.64), thuộc quân thứ của Thống đốc Hoàng Kế Viêm. Đặng Huy Trứ mất năm 1874 khi đang đóng quân tại xã Cao Đằng, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Nội. Ông dặn thuộc hạ tạm táng tại chỗ nhưng vua Tự Đức được tin, ban cho 100 quan tiền và ra lệnh quan tỉnh cho lính hộ tống quan tài về quê huyện Quảng Điền mai táng.
Do hai lần công tác ở Hongkong (1865) và Quảng Châu (1867), ông học được kỹ thuật nhiếp ảnh của Tây phương qua người Anh, tự sắm máy móc và vật liệu rồi về mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường ở Hà Nội. Đó là hiệu ảnh đầu tiên của Việt Nam, và Đặng Huy Trứ trở thành Tổ của nhiếp ảnh Việt Nam.
Có điều lạ là ông Tổ đã không để lại một bức ảnh chân dung nào của ông
mặc dầu sẵn phương tiện trong tay. Bức ảnh được phổ biến ngày nay là chụp lại từ chân dung truyền thần do họa sĩ Tàu vẽ bằng màu để thờ (theo cha tôi nói lại, bấy giờ, tại Gia Hội, Huế, có một người họa sĩ Tàu chuyên vẽ chân dung bằng màu cho gia đình các quan, ông bà Cố Nội của tôi cũng được vẽ theo lối này và ảnh thờ đến nay vẫn còn)
Nhiếp ảnh gia đầu tiên của triều đình Huế
Điều không mấy người biết là vào cuối đời Tự Đức, triều đình Huế đã có nhiếp ảnh viên và đã làm nhà chuyên dùng vào việc chụp ảnh. Bấy giờ là vào tháng 5 năm mậu dần (1878), nhằm năm Tự Đức thứ 31, năm năm trước khi vua Tự Đức băng hà (1883). Việc này được Quốc Sử Quán triều Nguyễn ghi chép chi tiết trong Thực lục như sau (nếu đọc mà thấy rắc rối, khó hiểu, xin bỏ qua, chỉ chú ý những chi tiết người viết in đậm để nhấn mạnh):
“Bắt đầu làm nhà riêng để chụp ảnh. Bấy giờ, Trương Văn Sán sang Tây học tập về, do bộ Hộ trình tiểu phép chụp ảnh. (phép chụp ảnh, phải có nhà riêng, dùng kính che cả 4 mặt cho sáng, mới phân biệt được râu, mày, hình dung, có giá để đồ chụp ảnh, bắt đầu cắm ống kính vào hòm máy, để lên trên cái giá, mở máy, bỏ cái nắp đậy ra, cho người ngồi trên cái ghế dựa trước ống kính, lấy cái trụ sắt đỡ đằng sau khăn ở đầu cho khỏi lay động, mới đem giá để máy chụp đưa đi đưa lại, khiến cho bóng người ở trong hòm kính rõ ràng. Xong rồi liền bỏ khuôn kính vuông ở mặt hòm đi, lấy khuôn kính bôi thuốc đổi đặt vào hòm máy, sẽ bỏ miếng ván che đi, khiến cho bóng người chiếu vào trong kính, liền để ván che vào, rồi nghẹ tay rút ra, đem vào chỗ kín, lấy nước thuốc rửa 3 lần, khiến cho bóng người dần hiện ra, đem phơi khô,để vào trong cái khuôn có hình chụp ảnh.
Lại đem ngay tấm giấy in một mặt ngâm vào chậu nước thuốc, rồi phơi ở chỗ râm, lại đặt lên trên kính ảnh trước để trong khuôn, đem khuôn che áp vào, khiến cho bóng người thấu vào giấy, lại phơi khô rồi lấy ra, lại dùng nước thuốc rửa qua 3 lần, đợi khô mới xem được) và các thứ máy móc (1 cái chuông ở trong ống kính chụp ảnh, 1 cái hòm chụp ảnh, 2 cái trụ sắt, 1 cái khuôn để chặn giấy, 1 cái giá chụp hình). Nhân sai làm nhà riêng (ở bên hữu sở Thương Bạc) cho Văn Sán làm việc chụp ảnh, quan dân có thuê chụp cũng cho. (Thực lục VIII, tr. 287)
Kỹ thuật nhiếp ảnh đang còn ở thời kỳ phôi thai, nhà chép sử tại Quốc Sử Quán hẳn cũng chưa nắm được trình tự kỹ thuật ấy ra sao nên việc mô tả trở thành rối rắm khó hiểu đối với người ngày nay, vốn chỉ biết nhiếp ảnh hiện
đại với máy móc tối tân và kỹ thuật digital đang phổ biến khắp thế giới.
Chỉ cần biết rằng, bấy giờ, năm 1878, vua Tự Đức đã cho thiết lập nhà chụp ảnh, giao cho một nhân viên Bộ Hộ tên Trương Văn Sán tốt nghiệp kỹ thuật nhiếp ảnh ở Pháp về, phụ trách. Nhà ảnh này không chỉ chụp ảnh cho hoàng gia mà còn mở ra cho công chúng cho cả quan và dân nữa, ai muốn thuê chụp ảnh cũng được. Phải nói đó là một sự tiến bộ vượt bật về sự du nhập kỹ thuật mới và tính bình đẳng trong dịch vụ.
Thấy được gì qua việc triều đình lập nhà chụp ảnh vào năm 1878?
Bên đây là chân dung vua Tự Đức (1848-1883) và vua Hàm Nghi (1884-1885)
Phải thú thật rằng lần đầu tiên khi được nhìn thấy những bức ảnh này, tôi không khỏi nghĩ ngay rằng đó là những tác phẩm của một nhiếp ảnh gia Tây phương nào đó, bởi chỉ có người Tây phương mới có phương tiện và biết chụp ảnh, đồng thời cũng có tư thế của khách nước ngoài để được đặc ân diện kiến vua mà chụp ảnh. Chỉ thắc mắc mỗi một điều: sao ảnh chân dung của vua mà chỉ toàn chụp nghiêng (profile)? Đến khi biết rằng vào những năm cuối triều Tự Đức, triều đình đã có thợ chụp ảnh riêng với nhà ảnh trang bị đầy đủ phương tiện thì hiểu ngay rằng những ảnh này có thể do Trương Văn Sán chụp.
Phép xưa, người dưới khi diện kiến người trên không được nhìn thẳng vào mặt người trên mà phải vòng tay cúi đầu để tỏ lòng kính trọng, lễ độ. Huống chi là đối với vua. Coi chừng, nhìn thẳng vào mặt vua (nếu có gan!) không bay đầu thì cũng ở tù vì tội khi quân. Lấy ý này, thơ Hàn Mặc Tử mới có câu Run như run, thần tử thấy long nhan.
Vì lẽ đó cho nên khi nhiếp ảnh viên là một viên quan của Bộ Hộ thì lúc chụp ảnh vua chỉ được phép chụp ở tư thế nhìn nghiêng mà thôi. Từ đời Đồng Khánh trở đi mới có ảnh nhìn thẳng, bởi sau lần Pháp đánh chiếm Kinh đô Huế ngày 5/7/1885 (thất thủ Kinh đô), hoàn toàn đặt nền thống trị trên toàn cõi Trung, Bắc kỳ, thì vua Việt Nam đã bị Pháp làm cho bớt thiêng nhiều lắm, bắt đầu dần quen với phong thái thẳng thắn của phương Tây hơn. Bởi vậy mới có việc…
Vua tặng ảnh kỷ niệm
Tôi đã từng được xem ảnh chân dung của Đoan Huy Hoàng Thái hậu (Bà Từ Cung, thân mẫu vua Bảo Đại) và ảnh của Nam Phương Hoàng hậu tặng cho một cận thần. Trên ảnh có thủ bút viết bằng chữ quốc ngữ Ân tứ XXX (tên
người nhận) và đóng ấn son. Nhưng đó không phải là bậc hoàng gia cao cấp đầu tiên của triều Nguyễn tặng ảnh kỷ niệm.
Vua Đồng Khánh (1885-1889) mới là vua đầu tiên bắt chước phong cách phương Tây tặng ảnh chân dung cho người khác.
Thực lục ghi nhận:
“Chuẩn cho quan Pháp in chân dung của vua.
Bấy giờ, Phó Đô thống Pháp bàn với Đô thống đại thần ủy phái quan họa đồ ấn ảnh Đại Pháp đến điện đình in chân dung của vua, gửi về nước Pháp, để tỏ tình giao hiếu với nhau. Viện thần nói: Quốc tục phương Tây, lấy việc ấy làm trọng, xin nên y theo. Mới chọn ngày quang tạnh, vua mặc mũ áo đại triều, ngồi ở điện Văn Minh cho quan Pháp chụp ảnh. Rồi chuẩn cho in thành 2 tấm ảnh, 1 tấm để lại dâng lên, 1 tấm gửi về Pháp” (Thực lục IX, tr. 216)
Thời điểm chụp ảnh này là tháng Chạp năm ất dậu (đầu năm 1886), thời tiết ở Huế vào tháng này thường u ám, mưa gió, vì vậy mới có việc chọn “ngày quang tạnh”, dầu vậy bên trong điện Văn Minh cũng không đầy đủ ánh sáng cho lắm, lại máy ảnh lúc bấy giờ chưa có flash nên ảnh do “quan Pháp” chụp nhưng xem ra không lấy chi làm sáng sủa, sắc sảo. Hẳn vì vậy nên sau đó, cũng trong năm 1886, vua chụp ảnh khác, mặc thường phục nhưng rõ đẹp hơn nhiều. Đó là bức ảnh vua dùng để tặng cho tướng Warnet của Pháp
Vua tặng ảnh thì phải khác người thường. Ảnh được dán trên một tờ giấy khác. Trên đầu ảnh đóng ngọc tỷ Đại Nam Hoàng Đế Chi Tỷ. Bên trái đề Đồng Khánh Hoàng đế chân dung, kế đến là ân Ngự Tiền Chi Bảo hình tám cạnh, cho biết rằng ảnh này do Nội Các (Văn phòng của vua lúc bấy giờ) vâng lệnh làm ra.
Từ đời Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) trở đi thì việc chụp ảnh vua, hoàng gia và triều đình Huế trở thành một việc bình thường chứ không quan trọng đến mức phải ghi vào Thực lục như dưới triều Đồng Khánh. Nhiếp ảnh viên Tây hay ta đều có mặt đề huề, thậm chí, xa xôi bên kia bờ đại dương như tập san National Geographic của Mỹ cũng có phóng viên tìm đến Huế làm
phóng sự bằng hình màu vào thập niên 1930./
3/2014
Tài liệu tham khảo:
-Đại Nam Thực Lục (gọi tắt Thực lục) , Tập VIII, bản dịch của Tổ Phiên
dịch,Viện Sử Học, Nxb Giáo Dục, 2002
-Tiếng Sông Hương, niên san, 1998, Dallas, USA.
-Võ Hương-An, Từ Điển Nhà Nguyễn, Nxb Nam Việt, California, 2012
(Nguồn : Tác giả gửi)








Thảo luận
Không có bình luận